Tuần san                                                                              

www.tinvui.org
bantreconggiao@yahoo.comTIN VUIFlowchart: Document: Số 
162
9/11/2008

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                             

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org hoặc www.tinvui.info để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

 

MỤC LỤC

 SỐNG LỜI CHÚA..

Lễ Cung hiến đền thờ La-tê-ra-nô.

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

Đức Thánh Cha tiếp các vị lãnh đạo Phong Trào Canh tân trong Thánh Linh.

Triển lãm Piô XII có lá thư của một rabbi Do Thái cám ơn ngài

Tòa Thánh lên tiếng bênh vực những người di dân.

Đa số Kitô hữu không biết, không đọc, và không cầu nguyện với Kinh Thánh.

Đức Giáo Hoàng chúc mừng tân cử Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama.

Các nhân vật Công giáo Mỹ phản ứng về chiến thắng của Obama.

Thông cáo chung của người Kitô giáo và đạo Hồi kêu gọi tự do tôn giáo.

Giám đốc Liên tôn giáo vụ của Do thái gặp Đức giáo hoàng. PAGEREF _Toc213989793 \h 19

Phỏng vấn GM Nguyễn Chí Linh về Thượng Hội Đồng Giám Mục và Giáo Hội Việt Nam.. PAGEREF _Toc213989794 \h 20

Yên Bái: một giáo xứ có linh mục quản xứ đầu tiên sau 34 năm..

“PHẢI CAN ĐẢM LOAN BÁO TÌNH YÊU VÀ TỰ DO ĐÍCH THỰC CỦA TIN MỪNG”.

Phỏng vấn Đức Tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm..

Thư  Của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt kêu gọi giúp đỡ nạn nhân lũ lụt miền Bắc.

LỄ KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ DUY LINH, GIÁO PHẬN BUÔN MA THUỘT.

Nhóm công nhân nhập cư Vạn Thành tại Tân Việt - một hình thức sống Tin Mừng nơi môi trường đô thị

LỄ MỪNG KÍNH CÁC THÁNH DÒNG ĐAMINH BỔN MẠNG LIÊN HUYNH HẠT HỐ NAI - GP. XUÂN LỘC..

Thánh lễ cầu nguyện cho các giám mục, linh mục và giáo dân đã qua đời của TGP Saigòn.

Dư vị bầu cử.

Phá thai

Hôn nhân đồng tính.

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

Nhà thờ hay Thánh đường.

TỈNH THỨC..

Lời vang vọng từ Thánh Đường.

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008.

Bài 10 :

ĐỜI SỒNG THIÊNG LIÊNG, CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI.

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

Giảng lễ Hôn phối :

ANH CŨNG LÀ CỦA TÔI.

ĐỌC SÁCH..

HỎA NGỤC..

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

Lễ Cung hiến đền thờ La-tê-ra-nô

PHÚC ÂM: Ga 2, 13-22

"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".

Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".

Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Ngưòi Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

Đó là lời Chúa.

  CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG - CUNG HIẾN TÌNH YÊU THƯƠNG


Chúng ta biết rằng mỗi giáo phận đều có một nhà thờ chính toà. Latêranô là nhà thờ chính toà của giáo phận Rôma, được xây dựng từ thời hoàng đế Constantinôp hồi đầu thế kỷ thứ tư. Đức giám mục Rôma cũng là Đức Giáo Hoàng; ngài là giám mục trên các giám mục, nên Đền thờ Latêranô mà hôm nay Giáo hội mừng cung hiến, cũng được gọi là “Mẹ và là đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Cung hiến Đền thờ Latêranô hôm nay làm ta nhớ đến việc Chúa Giêsu “thánh hiến” Đền thờ Giêrusalem ngày xưa.


Đền thờ Giêrusalem là trung tâm đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái. Nó được coi như con ngươi của đạo Giavê Thiên Chúa. Tuy nhiên theo thời gian, Đền Thờ ấy đã bị tục hoá, bị giải thiêng nhiều mặt. Việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ là để trả lại ý nghĩa đích thực của nó; đồng thời Ngài muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể Ngài. Vậy đâu là ý nghĩa của đền thờ Giêrusalem và đâu là ý nghĩa đền thờ thân thể mà Chúa Giêsu muốn mạc khải ?


Đọc lại lịch sử dân thánh, ta có thể thấy Đền Thờ Giêrusalem mang 3 ý nghĩa rất quan trọng sau đây:


- Ý nghĩa thứ nhất, đó là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết. Từ xa xưa, người Do thái vẫn xem đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Nói cách khác, Đền Thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để phượng thờ, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt là vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ.


Thế nhưng, một số người đã biến nó thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền Thờ là để trả lại chổ đứng của nó, vốn là “Nhà cầu nguyện”.

- Ý nghĩa thứ hai, đó là dấu chứng của tình yêu thương hiệp nhất. Quả thế, Đền Thờ Giêrusalem là nơi biểu lộ rõ nét nhất tình yêu của Giavê Thiên Chúa đối với dân Người và đồng thời cũng là nơi hiệp nhất muôn dân nước: “Từ muôn phương ta về đây sánh vai lên đường, đường đưa ta đi lên Đền Chúa ta…”.


Thế mà các giới chức Dothái đã biến thành nơi cạnh tranh, kèn cựa, xô bồ và phận biệt đối xử (phụ nữ, dân ngoại, kẻ tội lỗi….). Chúa Giêsu đã lật nhào, xô đổ tất cả nhằm thanh tẩy Đền thờ khỏi những điều bất xứng, cách riêng là khu vực dân ngoại. Từ nay, mọi người không phân biệt sắc tộc, tôn giáo … đều được tôn trọng và đón nhận. Đối với Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là nơi dành cho hết mọi người.


- Ý nghĩa thứ ba, đó là biểu tượng của sự thánh thiện tinh tuyền. Khi nói đến sự thánh thiêng, người Do thái thường nói đến Đền Thờ. Vì đối với họ, không có nơi nào khác ngoài Đền Thờ, con người có thể tìm được tất cả những gì là thiêng thánh và siêu việt của cõi thiên giới. Bởi đó chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy người Do Thái khi phải thề thốt một điều gì quan trọng, họ thường lấy Đền Thờ Giêrusalem mà thề.


Tuy nhiên, Đền Thờ ấy đã bị làm cho ô uế bằng đủ mọi thứ dối gian, trở thành nơi trục lợi, chổ mua danh, chốn lạm quyền, v.v... Trước thực trạng đó, Chúa Giêsu đã xua đuổi tất cả những kẻ làm cho Đền Thờ bị ô nhơ, nhằm trả lại sự thánh thiêng cho Đền Thờ. Đồng thời qua hành động và lời nói của mạnh mẽ của mình, Chúa Giêsu muốn mạc khải một đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài.


Đức Kitô chính là Đền thờ sống động, nơi Ngài chúng ta tìm được 3 ý nghĩa trên một cách tròn đầy nhất.


- Trong Đức Kitô, chúng ta được gặp gỡ Thiên Chúa là Cha và được nối kết với mọi người là anh em. Trong Đức Kitô, chúng ta có thể thưa lên “Aba”- lạy Cha, và đối xử với nhau như anh chị em con cùng một Cha trên trời.

- Trong Đức Kitô, chúng ta nhận được tình yêu tràn đầy mà Thiên Chúa dành cho nhân loại và hiệp nhất nên một với nhau, như lời Vinh Tụng Ca mà chúng ta thường nghe đọc: “Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”.


- Trong Đức Kitô, chúng ta cũng tìm lại được sự thánh thiện nguyên thuỷ dư đầy của mình vốn là hình ảnh của Thiên Chúa, mà Ađam và Evà đã đánh mất khi phạm tội.


Thưa quý ông bà anh chị em.


Khi mừng Lễ Cung Hiến Đền Thờ, chúng ta hãy nhớ rằng trong Đức Kitô, chính chúng ta cũng đã trở nên đền thờ sống động đã được cung hiến ngày chúng ta lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô đã minh định điều này với giáo đoàn Côrintô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta qua Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.


Thế nhưng hằng ngày chúng ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa ngự chưa ? Hay chúng ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế bởi những tính toan ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi và bao nhiêu thói hư tật xấu khác ?


Xin Chúa Giêsu hằng yêu thương thanh tẩy đền thờ tâm hồn của chúng ta mỗi ngày. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi, lật nhào khỏi lòng trí chúng ta những gì làm cho tâm hồn ra ô nhơ và trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự vào. Amen.

 

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Mục lục

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Đức Thánh Cha tiếp các vị lãnh đạo Phong Trào Canh tân trong Thánh Linh

VATICAN 31/10/2008. ĐTC Biển Đức 16 khuyến khích các phong trào Canh tân trong Thánh Linh tiếp tục phát huy sự trung thành với căn tính Công Giáo của mình và ngài đề cao các Phong trào và cộng đồng mới như một hồng ân đặc biệt của Chúa ban cho Giáo Hội.

ĐTC bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 31-10-2008, dành cho 700 tham dự viên hội nghị quốc tế lần thứ 13 của Huynh đoàn Công Giáo các cộng đồng Giao Ước đặc sủng Thánh Linh (Catholic Fraternity of Charismatic Covenant Communities and Fellowships).

Hiện diện tại buổi tiếp kiến còn có các GM tham dự cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ 2 của các GM tháp tùng các cộng đồng mới của phong trào Công Giáo canh tân trong Thánh Linh.

ĐTC nói: ”Chính vì chúng ta đang chứng kiến sự triển nở đầy hứa hẹn của các phong trào và cộng đoàn mới của Giáo Hội, nên điều quan trọng là các vị mục tử thực hiện một sự phân định thận trọng và khôn ngoan đối với các Phong trào và cộng đoàn ấy. Tôi thành tâm mong ước có sự tăng cường đối thoại ở mọi cấp độ giữa các vị mục tử với các Phong trào của Giáo Hội: tại các giáo xứ, các giáo phận và với Tòa Thánh”.

Ám chỉ đến sự kiện có một số GM không muốn nhìn nhận các phong trào, ĐTC khẳng định rằng: ”Trong việc phân định cần thực hiện, các vị mục tử, đặc biệt là các GM không thể không để ý tới sự kiện Tòa Thánh nhìn nhận và thiết lập các Hiệp hội quốc tế cho Giáo Hội hoàn vũ” (Bộ giám mục, Chỉ nam về sứ vụ mục vụ của các GM, những người kế vị các Tông Đồ, Cap.4,8).

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em thân mến, việc bảo tồn sự trung thành với căn tính Công Giáo và đặc tính Giáo Hội trong mỗi cộng đoàn của anh chị em sẽ giúp anh chị em làm chứng tá khắp nơi một cách sinh động và hiệu năng về mầu nhiệm sâu xa của Giáo Hội”.

Trên thế giới hiện nay có khoảng 500 triệu người thuộc các phong trào canh tân trong Thánh Linh, trong đó có 120 triệu người Công Giáo (SD 31-10-2008)

Mục lục

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ cầu cho các HY và GM qua đời

 

VATICAN -. Sáng 3-11-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ cầu nguyện cho 10 HY và 103 GM qua đời trong toàn thể Giáo Hội trong vòng 12 tháng qua.


Đồng tế với ĐTC tại Đền thờ Thánh Phêrô, có gần 40 HY thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh và các vị về hưu tại Roma, trước sự hiện diện của các GM, lối 1 ngàn tín hữu, cùng với nhiều vị thuộc ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.


Trong bài giảng, ĐTC đặc biệt nhắc đến tên 10 vị HY đã qua đời trong thời gian qua, đặc biệt là ĐHY Bernardin Gantin, người Bénin, cố niên trưởng Hồng y đoàn, ĐHY Alfonso Lopez Trujillo, người Colombia cố Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình.


ĐTC cũng dựa vào các bài đọc Sách Thánh để làm nổi bật khía cạnh tích cực của sự chết dưới ánh sáng sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài nói: ”Nếu Chúa gọi một người công chính về với ngài trước thời gian, vì Chúa có một ý định ưu tuyển đối với người ấy mà chúng ta không biết. Sự chết sớm của một người thân yêu của chúng ta trở thành một lời mời gọi chúng ta đừng trì trệ, sống một cách tầm thường, nhưng hãy cố gắng mau lẹ hết sức hướng về cuộc sống sung mãn”.


ĐTC nêu bật sự tương phản giữa quan niệm trần thế với sự khôn ngoan của Thiên Chúa. ”Thế gian thường coi những người sống lâu là được may mắn, nhưng Thiên Chúa nhìn đến tâm hồn ngay thẳng hơn là tuổi tác. Thế gian đề cao những người thông thái khôn ngoan, trong khi Thiên Chúa dành ưu tiên cho những người 'bé mọn'.


ĐTC nói thêm rằng: ”Trong thực tế, sự sống chân thật, sự sống đời đời đã bắt đầu ngay từ trần thế này, dù vẫn còn phải sống giữa những bấp bênh của những biến cố lịch sử; sự sống đời đời bắt đầu theo mức độ chúng ta cởi mở đối với mầu nhiệm Thiên Chúa và chúng ta đón nhận Ngài vào tâm hồn chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, Chúa tể sử sống, trong trong Chúa, ”chúng ta sinh sống, cử động và hiện hữu” như thánh Phaolô đã nói tại diễn trường thành Athènes bên Hy Lạp (Cv 17,28).


Vẫn theo lời ĐTC, ”trong viễn tượng sự khôn ngoan của Tin Mừng, chính sự chết trở thành yếu tố mang lại một giáo huấn lành mạnh, vì nó bó buộc con người phải nhìn thẳng vào thực tại; thúc đẩy chúng ta nhìn nhận sự hư nát cũ kỹ của những gì có vẻ là cao cả và mạnh mẽ trước mắt thế gian. Đứng trước sự chết, mọi lý lẽ thúc đẩy con người kiêu hãnh chẳng còn đáng quan tâm nữa và trái lại, chỉ có những gì thực sự có giá trị mới nổi bật lên”.

 

Mục lục

 

Tân Đại Sứ Ai cập cạnh Tòa Thánh trình quốc thư lên Đức Thánh Cha

 

VATICAN. Sáng 6-11-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến tân đại sứ Ai Cập cạnh Tòa Thánh là bà Aly Hamada Makhemar. Nhân dịp này, Ngài ca ngợi những nỗ lực của Ai Cập trong việc cổ võ đối thoại và xây dựng hòa bình.


Bà Makhemar năm nay 46 tuổi và hoạt động từ 23 năm nay trong ngành ngoại giao của Ai Cập. Quốc gia này hiện có 82 triệu dân, trong đó 90% theo Hồi giáo Sunnite, 9% là tín hữu Chính Thống Copte và 1% là tín hữu Công Giáo.


Trong diễn văn chào mừng bà tân đại sứ, ĐTC nhắc đến quan hệ tốt đẹp từ hơn 60 năm nay giữa Ai Cập và Tòa Thánh, đồng thời ghi nhận những cố gắng của Ai Cập trong việc bênh vực hòa bình, sự hòa hợp và những giải pháp công chính tôn trọng các quốc gia và con người. Ngài nói: ”Một bầu không khí đối thoại và xích lại gần nhau có thể tạo nên một nền văn hóa hòa bình. Bầu không khí ấy phải được khai sinh và dần dần đạt tới mức độ loại bỏ, hoặc ít là giảm bớt, sự ích kỷ của quốc gia và làm dịu bớt những quan tâm lợi lộc riêng tư hoặc công cộng. Tôn giáo có thể và phải là những yếu tố hòa bình. Nhưng điều cũng đáng tiếc là tôn giáo có thể bị hiểu lầm và lạm dụng để tạo nên bạo lực hoặc chết chóc.”


ĐTC đề cao tinh thần hiểu khách của Ai Cập và cũng nhắc đến cộng đồng Giáo Hội Công Giáo tại nước này, tuy bé nhỏ và thuộc nhiều lễ nghi khác nhau, nhưng cũng chứng tỏ có thể có sự hòa hợp và sống chung giữa các truyền thống Kitô Đông và Tây Phương.


Ngài ghi nhận sự kiện có nhiều tín hữu Công Giáo đến viếng thăm Ai Cập như du khách và trong cuộc viếng thăm họ muốn được thực hành tôn giáo của họ. ĐTC nói: ”Tôi xác tín rằng chẳng bao lâu nữa các tín hữu Công Giáo du khách ấy có thể cầu khẩn Thiên Chúa một cách xứng đáng trong những nơi thờ phượng thích hợp tại những địa điểm du lịch mới, được phát triển trong những năm gần đây. Đó thực là một dấu hiệu đẹp đẽ Ai Cập trình bày cho thế giới, khi tạo điều kiện dễ dàng có những quan hệ thân hữu và huynh đệ giữa các tôn giáo và các dân tộc, phù hợp với truyền thống cao quí và cổ kính của Ai Cập”. (SD 6-11-2008)


 

Mục lục

 

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình kêu gọi Thủ tướng Hàn Quốc bãi bỏ án tử hình

SEOUL (UCAN) 5/11 - Trong chuyến viếng thăm Hàn Quốc gần đây, một giáo chức cấp cao của Vatican đã kêu gọi Thủ tướng người Công giáo bãi bỏ án tử hình trong quốc gia này.

"Ngài Thủ tướng trả lời rằng ông sẽ xem xét việc này", Đức Hồng y Renato Raffaele Martino, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình, nói trước khi kết thúc bài thuyết trình ở Seoul hôm 31-10.

Đức Hồng y thuyết trình về Sứ mạng của Giáo hội đối với Chủ nghĩa Nhân văn Toàn diện trong Tình Liên đới  trước khoảng 30 thành viên của Uỷ ban Công lý và Hoà bình của Hội đồng Giám mục Công giáo Hàn Quốc (CBCK).

Buổi thuyết trình là một phần trong chuyến thăm của ngài từ ngày 30-10 đến 2-11. Thủ tướng Daniel Han Seung-soo mời ngài sang thăm Hàn Quốc.

Hai người quen nhau khi ông Han được bầu làm chủ toạ phiên họp thứ 56 của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc năm 2001. Lúc đó, Đức Hồng y Martino đứng đầu Phái đoàn Quan sát Thường trực của Toà Thánh tại Liên Hiệp quốc.

Hôm 31-10, Đức Hồng y viếng thăm ông Han tại văn phòng của ông. Họ thảo luận về án tử hình ở Hàn Quốc, và vấn đề nhân quyền, thiếu hụt lương thực và vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn, theo văn phòng thủ tướng.

Sau đó, ngài phát biểu trong bài nói chuyện: "Giáo hội cần nhấn mạnh đến các giáo huấn của mình" về các vấn đề xã hội, chẳng hạn như khi "nhân quyền đang bị vi phạm".

Giải thích Toát yếu Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, Đức Hồng y Martino nhấn mạnh vai trò của giáo dân trong việc thi hành giáo huấn xã hội của Giáo hội, xem họ là "những đối tác được ưu đãi" trong bản tóm tắt này.

"Giáo dân, nếu trở thành men muối và ánh sáng cho thế gian, phải làm việc để thể hiện ngày càng rõ hơn những điều này vốn mang tính con người thật sự trong quan hệ xã hội, mà không phải sợ hãi và với một sự cởi mở và đầy hy vọng về tương lai", ngài nói.

"Tuy nhiên, toát yếu này không phải là giải pháp về công lý xã hội", Đức Hồng y, còn là chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Coi sóc Mục vụ Di dân và Người Bất định cư, nói thêm. "Điều đó là lời khuyên, đề nghị, huấn thị, và chỉ dẫn chung cho các hoàn cảnh khác nhau trong mỗi xã hội. Mỗi Giáo hội cần thực hiện các giáo huấn này dựa trên tình hình của mình".

Ngài giải thích toát yếu này "là một văn kiện có ý gieo những hạt giống trên diện rộng, làm cho mảnh đất xây dựng xã hội phì nhiêu lâu dài, thúc đẩy và hướng dẫn sự hiện diện của người Công giáo trong lịch sử, không chỉ theo cách ứng khẩu".

Theo viên chức Vatican, năm 1999 Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã yêu cầu Hội đồng Giáo hoàng trình cuốn sách này lên ngài, và hội đồng đã dâng ngài cuốn sách này ngày 25-10-2004.

Giáo hội Công giáo Hàn Quốc đã dịch cuốn toát yếu này sang tiếng Hàn và phát hành ngày 5-11-2005.

Bình luận về những nhận xét của Đức Hồng y, linh mục Hugo Park Jung-woo, thư ký Uỷ ban Công lý và Hoà bình của CBCK, phát biểu với UCA News hôm 3-11: "Giáo hội lên tiếng về các giá trị chung và giáo huấn Giáo hội là hoàn toàn đúng".

Vị linh mục lưu ý Giáo hội Công giáo Hàn Quốc đã "gửi các thông điệp thích đáng cho xã hội về các vấn đề như vi phạm nhân quyền, tôn trọng sự sống và bãi bỏ án tử hình".

Tính đến tháng 12-2007, Hàn Quốc đã trải qua 10 năm không thi hành án tử hình, nên Hàn Quốc trở thành quốc gia theo chủ nghĩa bãi nô "thực tiễn", theo định nghĩa của tổ chức Ân Xá Quốc tế.

Tháng 11-2004, hơn phân nửa nhà lập pháp trong Quốc hội đưa ra dự luật bỏ án tử hình và thay nó bằng án chung thân không được tạm tha hay giảm án. Tuy nhiên, các nhà lập pháp bảo thủ đã ngăn cản Quốc hội biểu quyết cho dự luật này và nó mất hiệu lực khi nhiệm kỳ Quốc hội thứ 17 kết thúc hồi tháng 5.

 

Mục lục

 


 

Triển lãm Piô XII có lá thư của một rabbi Do Thái cám ơn ngài

44 lá thư nhắc đến những người Do Thái được cứu sống tại Rôma

RÔMA, ngày 5 tháng 11, 2008 (Zenit.org).- Cuộc Triển Lãm ĐTC Piô XII tại Vatican trình bầy lá thư của một rabbi người Pháp cám ơn ĐTC Piô XII và các linh mục Công Giáo về sự giúp đỡ người Do Thái trong thời họ bị bách hại.

Một lá thư của Rabbi André Zaoui, một tuyên úy cấp bậc đại úy của lực lượng viễn chinh Pháp, đề ngày 22 tháng 6, năm 1944, là một trong các văn kiện được trưng bầy trong cuộc triển lãm “Piô XII: Con Người và Triều Đại Giáo Hoàng” được tổ chức cho quần chúng xem từ ngày thứ ba 4 tháng 11, 2008 đến ngày 6 tháng 1, 2009.

Vị rabbi này ghi nhận việc ông được tham dự một cuộc triều kiến chung của ĐTC Piô XII vào ngày 6 tháng 6, 1944 lúc 12 giờ 20 cùng với “rất nhiều binh sĩ và giới chức đồng minh.”

Ông cũng ghi nhận cuộc thăm viếng Viện Giáo Hoàng Piô XI, “nơi đã che chở cho khoảng 60 trẻ em Do Thái, trong số đó có một số trẻ em di cư từ nước Pháp.”

Rabbi Zaoui viết là ông hết sức cảm động về “sự chăm sóc với tình phụ huynh của tất cả các giáo sư,” và nhắc lại lời vị giám học đã khẳng định rằng, “Chúng tôi không làm gì quá bổn phận của chúng tôi.”

Ông Zaoui kể lại một biến cố khác, vào ngày 8 tháng 6, 1944: khi Đền Thờ Do Thái giáo được mở cửa trở lại sau khi bị quân Đức Quốc Xã đóng cửa từ tháng 10, 1943.

Ông viết về sự hiện diện của một linh mục, cha Benoit, một “người Pháp đang lẩn trốn” đã tận hiến cho việc phục vụ các gia đình Do Thái tại Rôma.” Ông nhắc lại lời của vị linh mục này đã làm cho ông xúc động: “Tôi yêu người Do Thái hết lòng.”

Ông Zaoui khẳng định lòng biết ơn của ông và nói, “Israel sẽ không bao giờ quên được.”

Lá thư này được sao lại và in trong cuốn thư mục được Cơ Quan Ấn Hành Vatican xuất bản. Trong cuốn thư mục, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone Quốc Vụ Khanh, đề cao tầm quan trọng của cuộc triển lãm, và nói là, “đã làm cho mọi người biết rõ hơn về vị Giáo Hoàng đã được công nhận đúng là một trong những nhân vật cao quý nhất trong thế kỷ 20."

Đức Hồng Y cảm tạ tất cả những người có công thực hiện cuộc triển lãm này, và bầy tỏ niềm hy vọng là việc này “làm cho mọi người, nhất là các thế hệ trẻ, ngưỡng mộ hình ảnh của Đức Giáo Hoàng Piô XII, một người biết chuẩn bị con đường của Giáo Hội vào thời ngài, với linh tính tiên đoán được các dấu hiệu của thời đại."

Cuộc triển lãm nhằm trình bầy các đức tính của ĐTC Piô XII, từ lòng yêu mến thú vật – với hình ảnh ngài chụp với một con chim yến và vài con cừu con; sự say mê của ngài đối với các phát minh mới lạ -- với dao cạo chạy điện và máy đánh chữ của ngài; sự lo lắng cho người nghèo khó—với hình ảnh của những tấm nệm được trải ngay trên các bậc thang của Tư Dinh Giáo Hoàng cho các người tị nạn Thế Chiến Thứ Hai; lòng yêu mến nghệ thuật của ngài – được ghi nhận là buổi hòa nhạc của Ban Nhạc Đại Hòa Tấu Israel ngày 25 tháng 5, 1955, một dấu chỉ của lòng biết ơn của Israel đối với công việc ngài đã làm để giúp đỡ người Do Thái qua rất nhiều lần ngài đã can thiệp cho họ trong thời chiến.

Mục lục

 

 

Quốc gia thứ 177 thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh

VATICAN. Hôm 4-11-2008, Tòa Thánh và Cộng hòa Botswana đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau. Đây là quốc gia thứ 177 lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh.

Thông cáo của Tòa Thánh nói rằng: ”Tòa Thánh và Cộng hòa Botswana mong muốn thăng tiến các quan hệ thân hữu và phát triển sự cộng tác quốc tế, nên đã quyết định cùng thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau trên cấp bậc Sứ Thần về phía Tòa Thánh và Đại Sứ về phía Botswana, theo những gì đã được Hiệp Ước Vienne về quan hệ ngoại giao ngày 18-4-1961 đã qui định.”

Cũng ngày 4-11-2008, tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh ở Pretoria, thủ đô Nam Phi, đại diện Tòa Thánh và Botswana đã trao đổi công hàm ngoại giao và ký kết thông cáo về việc lập quan hệ ngoại giao.

Botswana là một cộng hòa được độc lập và theo tổng thống chế từ cuối tháng 9 năm 1966 trong khối Thịnh Vượng Chung. Quốc gia này rộng hơn 581 ngàn cây số vuông trong đó 70% là sa mạc Kalahari, trong khi miền tây bắc là bình nguyên Okavango lớn nhất thế giới. Botswana có nhiều mỏ kim cương giúp nước này phát triển kinh tế thuộc hàng thịnh vượng nhất Phi châu.

Nhờ sự ổn định về chính trị, an bình xã hội và chính sách thuế khóa quan tâm tới dân chúng, cũng như việc quản lý công quĩ khôn ngoan, Botswana được coi là một trong những quốc gia ổn định nhất Phi Châu.

Dân số Botswana hiện nay là 1 triệu 586 ngàn người, trong đó có hơn 37% bị nhiễm HIV-Aids. Năm nay chính phủ nước này dành 80 triệu Euro tương đương với 1 phần 4 ngân sách quốc gia để chống bệnh Aids.

Giáo Hội Công Giáo tại Botswana chỉ là một đoàn chiên bé nhỏ, chỉ hiện diện tại đây từ năm 1928 do các cha dòng thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm (OMI) và hiện chiếm 5% dân số toàn quốc, tức là 84 ngàn tín hữu thuộc giáo phận thủ đô Gaborone và địa phận đại diện tông tòa Francistown, với tổng cộng 38 giáo xứ, 27 linh mục triều, 40 LM dòng, 4 tu huynh và 77 nữ tu, 300 giáo lý viên. Phần lớn dân Botswana theo Tin Lành và 20% không có tôn giáo.

Sau Montenegro và các Tiểu vương quốc Arập hiệp nhất, Botswana là quốc gia thứ 3 lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh dưới triều đại ĐTC Biển Đức 16.

Mục lục

 

Tòa Thánh lên tiếng bênh vực những người di dân

Manila (AsiaNews) - Tất cả những người di dân, cho dù vì lý do gì và tình trạng của họ như thế nào, cũng phải được tôn trọng đầy đủ về mặt nhân quyền, vì đây cũng là cách duy nhất mà nhân loại hoàn toàn có thể được hưởng lợi từ sự di chuyển của họ từ nuớc này sang nước khác. Đây là phát biểu của Đức Cha Agostino Marchetto, thư ký của Hội đồng Hoàng về Chăm sóc Mục vụ cho người Di dân và Lưu động, ngài là người dẫn đầu phái đoàn Tòa Thánh tham dự Diễn đàn Quốc tế lần thứ hai về Di trú và Phát triển được tổ chức ở Manila từ ngày 27 đến 30 tháng Mười.

Ngài cho hay: “Tất cả những người di dân, bất kể tình trạng của họ như thế nào, cũng có quyền được hưởng nhân quyền và [.. . ] cần phải được đặc biệt quan tâm nhằm tránh phân biệt đối xử và để bảo vệ những người di dân dễ bị tổn thương như phụ nữ, các trẻ vị thành niên không người thân ở cùng, người già và người khuyết tật”

Ngài nhắc nhở: “Những hiệp ước đã tồn tại vốn bao gồm một cam kết mạnh mẽ để bảo vệ những người tị nạn, những người thiếu quốc tịch, những công nhân di dân lao động và các thành viên trong các gia đình là nạn nhân của buôn lậu và buôn người. Đây là những điều khoản đa phương chủ chốt nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền và những tự do cơ bản của người di dân, tất cả điều này - và đây là một trong những mục đích của diễn đàn chúng ta - liên quan đến sự phát triển. Trong thực tế, làm sao để những người di dân, nam hay nữ, có thể đóng góp khả năng của họ tốt nhất để phát triển thật sự nếu hoàn cảnh của họ không được nhân đạo?”

Trích dẫn từ diễn văn của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI phát biểu trước Liên Hiệp Quốc hôm 18 tháng Tư năm nay, trong đó Đức Thánh Cha lưu ý: “tương lai sẽ phải được xây dựng dựa trên nhân quyền”, Đức Cha Marchetto cho hay rằng: "bất kỳ hình thức di dân tạm bợ và xoay vòng nào cũng không bao giờ được xem như là cái cớ để né tránh sự tôn trọng đầy đủ các quyền của người di dân, và nhất là quyền đoàn tụ gia đình, họ phải được ghi nhận những đóng góp của mình vào sự phát triển cả bằng công việc của họ và bằng các biện pháp dành dụm tiền của họ gửi về nhà. Thất bại trong lĩnh vực này sẽ dẫn đến thiếu sót trong các chính sách hội nhập và hợp tác ở nước đến, cũng như các chính phát triển sách quốc gia ở nước họ ra đi”

Đức Cha cũng giải thích thêm: “Phát triển là một từ chủ chốt trong các cuộc họp của chúng ta, nhưng trong ảnh hưởng của nó, chúng ta thường thấy sự nghèo khổ. Phân biệt đối xử, bạo lực, sự hạn chế cá nhân và tự do tập thể là những thực tại đang được phổ biến cả đối với di dân và nghèo khổ. Cả hai đang có liên quan đến, trong số các khía cạnh khác, những nhóm khép kín đang định hình, vốn ngăn trở sự gặp gỡ và đối thoại, và cướp đi của người dân sự làm phong phú và trao đổi lẫn nhau, sự hội nhập và nhân nhượng lẫn nhau, sự hiểu biết và đem lại lợi ích chung”

Đức Cha Marchetto nhấn mạnh rằng trách nhiệm thuộc về các nhà chức trách chính quyền. Chính phủ của các quốc gia nơi ra đi phải cung cấp việc làm và các công ăn việc làm tốt hơn trong khi chính phủ nơi đến phải công nhận rằng “đoàn tụ gia đình là cách tốt nhất để thúc đẩy sự hoà nhập của những di dân nhập cư và để loại bỏ nhiều vấn đề, nhất là những vấn đề có liên quan đến an ninh và trật tự công cộng”

Mục lục

 

Đa số Kitô hữu không biết, không đọc, và không cầu nguyện với Kinh Thánh

Một số nhận định của Linh Mục Bruno Maggioni, chuyên viên Kinh Thánh về Kinh Thánh như linh hồn của cuộc sống mục vụ

Trong các ngày từ mùng 5 đến 25 tháng 10 vừa qua Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới kỳ thứ XII về Lời Chúa đã diễn ra tại Roma với sự tham dự của 253 nghị phụ đến từ 118 quốc gia. Đặc biệt cũng có đại biểu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, Giám Mục Phó Nha Trang và Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám Mục Thanh Hóa. Ngoài ra có một người Việt thứ ba là Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, giáo sư Kinh Thánh tại đại chủng viện Nha trang, trợ tá cho Đức Tổng Giám Mục Tổng Thư Ký đặc biệt Monsengwo Pasinya.

Xét về châu lục số nghị phụ đến từ Âu châu đông nhất với 90 vị, tiếp đến là Mỹ châu 62 vị, Phi châu 51 vị, Á châu 41 vị và sau cùng là 9 vị đến từ châu Đại Dương. Các vị tham dự công nghị này với nhiều danh nghĩa khác nhau: 173 vị được bầu ra, 38 vị do chức vụ, 32 vị do Đức Thánh Cha bổ nhiệm và 10 vị là Bề Trên Tổng Quyền đại diện Liên Hiệp các Bề Trên Tổng Quyền.

Xét về cấp bậc của các nghị phụ, vó 8 Thượng Phụ, 52 Hồng Y, 2 Tổng Giám Mục Trưởng, 79 Tổng Giám Mục và 130 Giám Mục. Nghị phụ cao niên nhất là Đức Hồng Y Nasrallah Sfeir, Thượng Phụ Giáo Chủ Công Giáo Maronít Libăng, năm nay 88 tuổi; vị trẻ nhất 39 tuổi là Đức Cha Anton Leichtfried, Giám Mục phụ tá giáo phận Sankt Poelten, bên Áo.

Tham dự khóa họp cũng có 41 Linh Mục chuyên gia đến từ 21 nước và 37 dự thính viên nam nữ đền từ 26 nước. Ngoài ra còn có 10 đại biểu các Giáo Hội và Cộng Đoàn Giáo Hội Kitô anh em, trong đó có các Giáo Hội Chính Thống, Giáo Hội Armeni Tông Truyền, Giáo Hội Anh giáo, Giáo Hội Kitô Hoa Kỳ và Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô ở Genève.

Cũng có ba vị được Đức Thánh Cha mời đặc biệt là Rabbi Trưởng Cộng Đoàn Do thái ở Haifa Israel Shear Yashyr Cohen, Mục Sư Miller Milloy, Tổng Thư Ký Liên Hiệp các Hội Kinh Thánh và Thầy Alois, tu viện trưởng Cộng Đoàn Đại Kết Taizé bên Pháp.

Phụ giúp công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục có 32 Linh Mục trợ tá, các thông dịch viên và nhân viên kỹ thuật.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho chương trình Ý ngữ đài Vaticăng, Linh Mục Federico Lombardi, tổng giám đốc đài phát thanh Vaticăng, kiêm giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết cách đây 3 năm Thượng Hội Đồng Giám Mục đã đào sâu về bí tích Thánh Thể, giờ đây lại đào sâu về Lời Chúa là một suối nguồn khác của cuộc sống Giáo Hội. Theo trường học của Công Đồng Chung Vaticăng II mọi Kitô hữu và các cộng đoàn phải biết lắng nghe Lời Chúa trở lại. Còn rất nhiều điều phải làm để phổ biến giữa lòng cộng đoàn dân Chúa việc quen thuộc với Kinh Thánh và dùng Kinh Thánh để cầu nguyện. Lý do là vì Lời Chúa là nền tảng của việc loan báo Kitô cả trong thế giới tân tiến ngày nay và trong việc đối thoại với các tôn giáo khác. Với Thượng Hội Đồng Giám Mục này về ”Lời Chúa trong cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội”, Giáo Hội chuẩn bị sống thời gian suy tư và cầu nguyện sâu đậm.

Hiện nay sách Kinh Thánh đã được dịch ra 2.454 thứ tiếng khác nhau trên tổng số 6.000 thứ tiếng trên thế giới, và là cuốn sách được in ấn và phổ biến rộng rãi nhất thế giới. Nhưng số người thực sự đọc và cầu nguyện với Kinh Thánh không tương xứng với số ấn bản Kinh Thánh đã phát hành.

Mới đây tổ chức GFK-Eurisko đã làm một cuộc thăm dò ý kiến dưới sự hướng dẫn của nhà xã hội học Luca Diotallevi, bằng cách thực hiện 13.000 cuộc phỏng vấn người lớn tại Hoa Kỳ, Anh quốc, Hòa Lan, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Ba Lan và Nga, nghĩa là tại các nước có đông dân theo Kitô giáo và có truyền thống Kitô sâu đậm nhất. Các kết qủa cho thấy tại Italia là quốc gia có 88% theo Công Giáo, và 75% có sách Kinh Thánh trong nhà, nhưng trong suốt 12 tháng qua đã chỉ có 27% đọc Kinh Thánh. Tại Hoa Kỳ có 93% Kitô hữu có Kinh Thánh trong nhà và 75% đã đoc Kinh Thánh trong 12 tháng qua. Số người đọc Kinh Thánh trong thời gian này tại Pháp chỉ được 21%, mặc dù 50% có sách Kinh Thánh trong nhà, và tại Tây Ban Nha số người đọc Kinh Thánh chỉ được 20%.

Kết qủa đó là sự hiểu biết về Kinh Thánh của tín hữu Kitô cũng rất hạn hẹp. Khi được hỏi về Kinh Thánh chỉ có 14% tín hữu Italia trả lời một cách đúng đắn, 17% người Hoa Kỳ, 15% người Đức, 11% người Pháp và 8% người Tây Ban Nha, Ba Lan khá hơn với 20%. Do đó không là điều lạ, khi có người trả lời ngớ ngẩn như Chúa Giêsu đã viết ít nhất một cuốn Phúc Âm, thánh Phêrô và thánh Phaolô là tác giả Phúc Âm và ông Môshê không phải là nhân vật của Cựu Ước.

Liên quan tới số người cầu nguyện với Kinh Thánh tại Italia chỉ có 10%, tại Hoa Kỳ được 37% và Tây Ban Nha chỉ có 8%. Tại Hoa Kỳ số người có Kinh Thánh, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện với Kinh Thánh cao, vì đa số là các anh chị em Tin Lành có truyến thống đọc Kinh Thánh. Chính sự ”dốt nát” về Kinh Thánh trên đây khiến cho số người ước mong đem Kinh Thánh vào trong chương trình học rất cao: 63% tại Nga, 62% tại Italia, 56% tại Đức và 24% tại Pháp.

Cũng trong ý hướng tìm hiểu tầm hiểu biết của Kitô hữu đối với Kinh Thánh Nguyệt San ”Gia Đình Kitô” cũng đã thực hiện một cuộc thăm dò ý kiến. Kết qủa cuộc thăm đò cho thấy trong 12 tháng qua chỉ có 27% tín hữu Công Giáo Italia là đã đọc một đoạn trong Kinh Thánh; 65% - kể cả 60% các tín hữu thực hành đạo - đã không bao giờ đọc trọn bốn Phúc Âm trong suốt cuộc đời mình; và 15% chỉ đọc một phần của 4 Phúc Âm. Nhưng có lẽ cũng vì thế mà có tới 63% mong muốn chương trình học đường dành nhiều chỗ hơn cho văn hóa tôn giáo và 35% những người không có lòng tin Kitô cũng mong ước như thế.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một vài nhận định của Linh Mục Bruno Maggioni, chuyên viên Kinh Thánh về ”Kinh Thánh như linh hồn của cuộc sống mục vụ”. Cha Maggioni là một trong các chuyên viên Kinh Thánh nổi tiếng nhất tại Italia, và là giáo sư Kinh Thánh tại đại chủng viện Como, cũng như đã từng là giáo sư tại Phân Khoa Thần Học Bắc Italia.

Hỏi: Thưa cha Maggioni, như là chuyên viên Kinh Thánh và mục tử cha mong đợi gì nơi Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa?

Đáp: Tôi ước mong công việc của các nghị phụ và của Đức Thánh Cha làm cho chúng ta ngày càng nếm hưởng Lời Chúa như là suối nguồn, từ đó phát xuất ra các lựa chọn mục vụ hữu hiệu. Đây đã là viễn tượng mà Hiến Chế về Lời Chúa Dei Verbum đã chỉ định một cách rõ ràng, nhưng chưa được thực hiện một cách tràn đầy trong các cộng đoàn Giáo Hội. Vì thế Thượng Hội Đồng Giám Mục này đến đúng lúc. Ngoài ra Năm Thánh Phaolô cũng là một thúc đẩy mạnh việc áp dụng Lời Chúa vào trong cuộc sống mục vụ của Giáo Hội.

Hỏi: Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa diễn ra 40 năm sau khi kết thúc Công Đồng Chung Vaticăng II. Chúng ta có thể làm một bảng tổng kết thời gian này, từ một quan điểm Kinh Thánh hay không thưa cha?

Đáp: So sánh với thời tiền Công Đồng, chắc chắn là tình hình có tiến triển nhiều hơn. Trong các thập niên qua Kinh Thánh đã đến trong tay tín hữu. Giờ đây cần phải bổ túc công việc làm sao để cho Lời Chúa càng ngày càng linh hứng cho việc rao giảng, dậy giáo lý và công tác mục vụ.

Hỏi: Làm thế nào để cho công việc của Thượng Hồi Đồng Giám Mục được tuôn chảy vào trong cuộc sống của các cộng đoàn giáo xứ và giáo phận thưa cha?

Đáp: Trước hết cần phải tránh nguy cơ ngầm không phải chỉ của Thượng Hội Đồng Giám Mục này về Lời Chúa, mà đối với tất cả mọi Thượng Hội Đồng Giám Mục: đó là coi chúng như là một cuộc hội họp của các chuyên viên chung quanh Đức Thánh Cha, và như thế trong một cách nào đó không chú ý tới chúng vì tưởng chúng không liên hệ gì tới chúng ta. Trái lại các Thượng Hội Đồng Giám Mục liên quan tới từng thành phần Giáo Hội.

Mục lục

 

Đức Giáo Hoàng chúc mừng tân cử Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama

Vatican: Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã gởi điện văn riêng tới tân cử Tổng Tống Barack Obama vào ngày 5/11, chúc mừng ông và cống hiến lời cầu nguyện của ngài cho Obama và toàn cư dân Hoa Kỳ.


Đây là điều hết sức ngoại thường vì từ trước đến nay Đức Giáo Hoàng chỉ chúc mừng trong ngày khi Tổng Thống Hoa Kỳ chính thức tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống. Cha Dòng Tên Federico Lombardi, Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết vì là điện văn chỉ gởi riêng cho Obama, cho nên Tòa Thánh không dự định phổ biến. Tuy nhiên vì tính cách lịch sử trong cuộc tuyển cử lần này đã đưa một người Mỹ đen đầu tiên lên làm Tổng Thống Hoa Kỳ, cho nên Đức Giáo Hoàng đã chúc mừng chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi Barack Obama được tuyên bố thắng cử.


Cha Lombardi cho biết Đức Giáo Hoàng đã chúc mừng Obama, phu nhân và gia đình.


Cha Lombardi nói “Đức Giáo Hoàng bảo đảm với ông trong lời nguyện của Ngài cầu xin Thiên Chúa nâng đỡ ông trong trách nhiệm nặng nề đối với tổ quốc và đối với cộng đồng quốc tế”.


Khi được báo chí hỏi đến Đức Giáo Hoàng có nhấn mạnh đến một vấn đề đặc biệt nào không? Cha Lombardi trả lời “cho hòa bình, đại kết và công lý”


Đức Giáo Hoàng cũng cầu xin “Chúc lành của Thiên Chúa đổ xuống trên ông và trên cử dân Hoa Kỳ để tất cả mọi người với lòng thiện chí có thể xây dựng một thế giới hòa bình”.


Điện văn gởi tới Obama được chuyển qua văn phòng của Bà Mary Ann Glendon, là Đại Sứ Hoa Kỳ làm việc bên cạnh Tòa Thánh. Trong dịp này Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh cũng đã gởi điện chúc mừng.


Cha Lombardi cho biết một điện văn chính thức cũng sẽ được gởi đi trong ngày Tân cử Barack Obama chính thức tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ vào ngày 20/1/2009. Trong quá khứ, theo truyền thống Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng chỉ gởi điện chúc mừng tân Tổng Thống Hoa Kỳ trong ngày chính thức tuyên thệ nhậm chức.


Cha Lombardi cũng bày tỏ niềm hy vọng khi Barack Obama đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ, Cha cũng nói với các ký giả, người Công Giáo “đang cầu nguyện để Thiên Chúa soi sáng và nâng đỡ” tân tổng thống.


“Nhiệm vụ của tổng thống Hoa Kỳ là một trách nhiệm lớn lao và nặng nề, không chỉ đối với chính đất nước của tổng thống, mà cho cho toàn thế giới, xét đến tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại mọi nơi trên toàn thế giới”.

 

Mục lục

 

Các nhân vật Công giáo Mỹ phản ứng về chiến thắng của Obama

 

Washington (CNA) – Phản ứng của một số người Công giáo lỗi lạc đối với việc Thượng nghị sĩ Barack Obama bang Illinois đắc cử chức vụ tổng thống Hoa kỳ, là đưa ra sự cẩn trọng, khuyến khích học hỏi thêm giáo lý và hoạt động văn hóa, nhưng đồng thời cũng cảnh báo rằng phải chống đối việc Obama sử dụng chức vụ tổng thống để thúc đẩy quyền phá thai.


AUSTIN RUSE, Chủ tịch Viện Gia đình Công giáo và Nhân quyền (Catholic Family and Human Rights Institute), cho cơ quan thông tấn CNA biết rằng người Công giáo nên ủng hộ Obama những điều họ chấp nhận được và nên chống đối “với tất cả thực thể cúa chúng ta” trong những vấn đề như phá thai chẳng hạn. Ông cũng nhấn mạnh đến việc phải chú tâm vào giáo lý.


Ông nói: “Nếu người Công giáo đã thực sự hành động phù hợp với các hiểu biết đúng đắn về đức tin của mính, Barack Obama đã không bao giờ đắc cử được.”


Lên tiếng về mối nghi ngờ của ông cho rằng những người Công giáo đi lễ thường xuyên đã ủng hộ McCain, nhưng “người Công giáo nói chung” (generic Catholics) ủng hộ Obama, Ruse cho biết ông nghĩ là tổ chức với nỗ lực nhắm vào người Công giáo trong chiến dịch tranh cử của McCain đã “rất yếu”.


“Tổ chức đó thực sự đã không khi nào cất cánh nổi khỏi mặt đất và bị què quặt do kế hoạch dở và thực thi dở. Tôi khá gần cận với nó nên tôi biết nó bị trì trệ do những nghị trình cá nhân ít dính dáng gì đến việc bầu cho McCain và hầu hết là chỉ để bảo vệ thế đứng. Công tác vươn tới người Công giáo trong chiến dịch tranh cử của McCain cực kỳ thiếu xây dựng”


Tuy nhiên, Ruse cho biết các vị giám mục đã là những “ngôi sáo sáng.”


“Chúng ta chưa hề thấy việc nào như thế. Hơn 100 vị đã xuất hiện, công khai chống lại Nền Văn hóa Sự Chết. Tôi e rằng nhiều vị sẽ bị sở thuế làm khó dễ. Tôi hy vọng các ngài vẫn còn mạnh mẽ. Tôi thíêt nghĩ các ngài sẽ như thế và sẽ còn mạnh mẽ hơn nữa vào những tháng sắp tới.”


Ruse cảnh báo rằng Obama và đồng minh của ông này sẽ là “chính quyền phò phá thai, phò hôn nhân đồng tính nhất trong lịch sử. Giáo hội sẽ duy trì vị trí chống đối gần như thường trực với chính quyền trong những vấn đề về chính sách công quan trọng nhất đối với giáo hội. Tôi mong rằng các giám mục cũng như hàng giáo dân Công giáo trung tín sẽ rất tích cực.” Ông nói rằng Giáo hội sẽ phải chiến đấu quyết liệt hơn nữa cho “sự sống và gia đình.”

 

Cha FRANK PAVONE, Chủ tịch tổ chức các Linh Mục Phò sinh (Priests for Life) nói rằng người Công giáo nên tập chú vào việc thách đố Obama “mỗi ngày suốt nhiệm kỳ của ông nhằm ngưng lại việc giết chết trẻ em hiện đang xảy ra tại Mỹ, và hành động để có sự “thay đổi” trong Đảng Dân chủ để cho đảng này không còn là sứ giả của thần chết đối với những đứa trẻ chưa sinh.”


Cha Pavone cho rằng người Công giáo luôn đóng “vài trò then chốt” trong việc quyết định ai sẽ là tổng thống, và nói các giám mục đã đem ra “nhiều bản tuyên bố tuyệt hảo” về tính ưu việt của quyền được sống, đặt thành vấn đề quan trọng trong cuộc bầu cử. Cha cho rằng giáo huấn của các vị giám mục trong “Forming Consciences For Faithful Citizenship” (Huấn luyện lương tâm cho người công dân giáo hữu) “đã bị lạm dụng và xuyên tạc cả trong và ngoài phạm vi Giáo hội”, và kêu gọi những điều xuyên tạc đó phải được sửa chữa do cùng cơ chế đã tạo ra tài liệu đó.


Cha nói thêm rằng nỗ lực của Giáo hội Công giáo trong việc ghi danh cho cử tri đáng lẽ đã phải “mạnh mẽ hơn nhiều”, và thúc giục đẩy mạnh ghi danh ngay từ bây giờ cho chu kỳ bầu cử năm 2010.


Quay qua vấn đề tài liệu giáo dục cho cử tri, cha Pavone chỉ trích nhiều chính sách của các giáo phận đã chống không để cho tài liệu từ “các nhóm bên ngoài” phổ biến.


“Điều đó thúc đẩy một quan điểm cho rằng Giáo hội có tính cách quan liêu và cơ chế hơn là một Thân thể Đức Kitô tràn đầy Thánh Thần, có nhiều bộ phận, năng khiếu và công tác mục vụ khác nhau, tất cả đều khuyến khích lẫn nhau.”


“Tôi thấy đặc biệt là không ích lợi gì hết khi bị gọi là “nhóm bên ngoài”, và những nỗ lực mạnh mẽ để giáo dục cho người Công giáo về các giáo huấn của các giám mục lại được đón nhận với tiêu đề “chỉ được dùng tài liệu riêng của chúng tôi mà thôi”, cứ như thể sứ vụ giảng dạy của các linh mục hay sự hiệp nhất trong Giáo hội phải ngưng lại vào thời gian bầu cử.”


Khi được CNA hỏi về vai trò của Giáo hội trong lãnh vực công dưới chính quyền Obama, cha Pavone đáp:


“Giáo hội sẽ phải đối mặt với áp lực càng ngày càng gia tăng không được can thiệp vào lập trường của các viên chức công như phá thai và hôn nhân; tuy vậy các hành động của một chính quyền phò phá thai và của một Phó tổng thống phò phá thai sẽ cần đến phản ứng của Giáo hội. Nói cách khác, chúng ta phải sẵn sàng tranh đấu.”


Ký giả JOHN L. ALLEN Jr. tại Vatican nói với CNA rằng Giáo hội Công giáo “không phải là một đảng phái chính trị. Và mối quan tâm hàng đầu không phải là về chính sách hoặc về luật pháp.”


Trọng tâm của Giáo hội phải là “nơi Giáo hội vẫn luôn họat động – đó là cuộc sống tâm linh, các nhiệm tích, thúc đẩy mối liên hệ với Thiên Chúa qua đức Kitô.”


“Nhưng Giáo hội rõ rệt quan tâm đến những việc công dưới nhãn quan công lý, và cũng như với mọi chính quyền, giáo hội muốn cố gắng làm việc với chính quyền Obama nhằm đề cao phẩm giá con người. Trong thực tế, điều này có nghĩa là tiếp tục đưa ra những luận chứng luân lý đạo đức nhân danh những mạng sống chưa sinh, đồng thời cũng theo đuổi những lãnh vực tự nhiên đã có sự đồng thuận với chính quyền mới như vấn đề cải cách chính sách di dân, công bằng về kinh tế, hòa bình và bảo vệ môi trường.”


Allen gợi ý là Giáo hội và chính quyền Obama có thể hợp tác để xúc tiến việc phát triển ở châu Phi, ông nói rằng 2009 đang được hình thành là “Năm châu Phi” đối với Giáo hội Công giáo toàn cầu. Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI dự trù thăm viếng Cameroon và Angola vào tháng Ba năm tới, và Thượng hội đồng giám mục về châu Phi sẽ họp vào tháng 10.


Đề cập đến kết quả cuộc bầu cử, Allen nói rằng Obama nhận được đa số phiếu bầu của người Công giáo nói chung nhưng thua sít sao số phiếu của người Công giáo da trắng. Chú ý đến sự kiện là nhiều người trong số người Công giáo da trắng đó “chắc chắn” đã quan tâm đến các vấn đề về sự sống, chẳng hạn như phá thai, ông nói nếu thực sự Obama muốn đoàn kết mọi người, “ông ta cần vươn tới và tìm ra thế đứng chung trên những vấn đề liên quan đến sự sống, đặc biệt lá phá thai.”


Theo cái nhìn của Allen, hầu hết các giám mục đã giữ vững lập trường theo đúng tài liệu “Faithful Citizenship”, chỉ có một “thiểu số nhỏ” đã đưa ra những lời tuyên bố “rõ rệt theo khía cạnh đảng phái.”


“Nếu bảo rằng kết quả cuộc bầu cử là một “thất bại” của các vị giám mục, thì tôi thiết tưởng điều đó sai. Đối với đại đa số các giám mục đã giảng dậy rằng những sự lựa chọn chính trị đặc biệt nào đó là nhiệm vụ của một giáo dân được học biết đầy đủ, thì cuộc chọn lựa Obama (hoặc McCain, nếu như kết quả cuộc bầu cử chuyển hướng như thế) không thể là một chiến thắng hay một thua bại.”


Ông giải thích rằng nay Giáo hội phải đối mặt với thách đố trong việc thiết lập mối liên hệ với chính quyền Obama, không phải là mối liên hệ “đặc biệt thường xuyên chống đối”. Allen đề nghị các giám mục nên nghiên cứu sự nghiệp trong ngành ngoại giao của Toà thánh Vatican, đã có “kinh nghiệm hàng bao thế kỷ” phải đối phó với những chính thể “bằng cách này hay cách khác thù nghịch với một số phương diện trong giáo huấn của Giáo hội.”


Allen nói rằng triển vọng để lật ngược triệt để được Roe v Wade là “cực kỳ giới hạn” dưới chính quyền Obama.

“Do đó, điều thách đố có lẽ là thay đổi chiều hướng một chút, bằng cách đầu tư nhiều tài nguyên hơn nhằm thắng thế cuộc tranh biện bảo vệ sự sống ở cấp độ văn hóa. Nói cách khác, có lẽ chúng ta nên ít tùy thuộc vào quyền áp đặt của nhà nước, mà nên dựa vào xu thế của trái tim con người thường đáp ứng theo chân lý.”


GEORGE WEIGEL, nhà bình luận chính trị và viết tiểu sử Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, nói rằng người Công giáo nghiêm chỉnh nên tập chú vào nỗ lực bảo vệ những thành quả đạt được suốt 30 năm qua về luật pháp trong vấn đề phò sinh, đối lại với “Tổng thống Obama và một Quốc hội cấp tiến phò phá thai đứng đầu là một nhân vật tự xưng là “người Công giáo đạo hạnh.”


Weigel lặp lại nhu cầu phải đánh bại Dự luật Tự do Chọn lựa (Freedom of Choice Act - FOCA) của liên bang. Dự luật này sẽ hủy bỏ mọi hạn chế về phá thai và có thể tước đoạt đi sự bảo vệ dành cho những tiếng nói chống đối có lương tri của người phò sinh.


Vấn đề phiếu bầu của người Công giáo cũng cần phải đem ra nghiên cứu. Ông nói với thông tấn xã CNA:


“Thấy được số “phiếu Công giáo” chung cuộc đã vỡ nát như thế nào là điều đáng chú ý, nhưng cốt yếu là phải tách số phiếu đó ra từng phần, xem người Công giáo đi-lễ-thường-xuyên bầu cử khác biệt ra sao với người năm-thì-mười-họa mới đến nhà thờ và với những người “tribal Catholics” (Công giáo theo kiểu bộ lạc) khác.


Weigel lý luận rằng các giám mục không thể “làm ngơ” thêm nữa về vấn đề rước lễ của những người lãnh đạo quốc gia “kiên trì và chủ tâm phát triển nền văn hóa sự chết.”

Ông nói thêm: nếu Quốc hội bãi bỏ Tu chính án Hyde – cấm dùng quỹ liên bang cho các vụ phá thai – các giám mục và các nhà thần học sẽ phải xem xét đến các hậu quả của việc này về phương diện luân lý, đạo đức.

Ông kết luận: “Sự thắng thế của tiểu bang Washington trong vấn đề an tử (euthanasia) là một cái tát mạnh vào sự nghiệp của nền Văn hóa Sự sống, và rõ rệt là chúng ta cần xem xét lại câu hỏi là sẽ phải phản biện vấn đề đó như thế nào.”

 

Mục lục

 

Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ chúc mừng tân cử Tổng Thống Barack Obama.

 

Washington:Đức Hồng Y Francis E. George tại Chicago, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã chúc mừng tân cử Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama trong cuộc “tuyển cử lịch sử”, là người Mỹ gốc Phi đầu tiên lên làm Tổng Thống Hoa Kỳ.

Thay mặt cho Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, Đức Hồng Y George đã viết lá thư gởi tới Obama: “Cư dân của đất nước chúng ta đã tín cẩn ngài với một trách nhiệm nặng nề. Là những giám mục Công Giáo, chúng tôi cống hiến trong lời nguyện chúng tôi để Thiên Chúa ban cho ngài sức mạnh và khôn ngoan hầu đương đầu với những thử thách sắp tới”.


“Đất nước đang đối diện với nhiều sự không chắc chắn. Chúng tôi cầu nguyện để ngài xử dụng quyền hành của ngài để đáp ứng với một sự quan tâm đặc biệt hầu bảo vệ đến người cô thế nhất trong chúng ta và hàn gắn những chia rẽ trong đất nước và trong thế giới chúng ta”.


“Xin Thiên Chúa chúc lành cho ngài và tân cử Phó Tổng Thống (Joseph) Biden trong lúc ngài sửa soạn thi hành nhiệm vụ của ngài trong việc phục vụ đất nước chúng ta và cư dân”.

 

Mục lục

 

Thông cáo chung của người Kitô giáo và đạo Hồi kêu gọi tự do tôn giáo

 

Vatican (CNS) – Người Kitô giáo và Hồi giáo phải cùng nhau cộng tác để bảo vệ tự do tôn giáo; họ phải học biết nhau nhiều hơn và phải làm nhân chứng cho thế giới về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Đó là phát biểu của các thành viên tham dự Diễn đàn Công giáo–Hồi giáo.


Tham dự diễn đàn này có 28 đại diện Hồi giáo và 28 đại diện Công giáo, gặp nhau tại Vatican từ ngày 4 đến 6 tháng 11 để thảo luận về sự hiểu biết nghĩa vụ yêu kính Thiên Chúa và yêu thương người lân cận trong niềm tin của họ.


Sau đây là những nét chính trong bản tuyên bố kết thúc Diễn đàn:



Người Kitô giáo và Hồi giáo công nhận phẩm giá và sự thánh thiêng của sự sống con người bởi vì mỗi người đều “được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng nên”.


Kitô giáo và Hồi giáo đều dạy rằng lòng yêu kính Thiên Chúa và đức tin chân chính dẫn đến tình yêu thương người lân cận và “tình yêu thương người kế cận chân thật đòi hỏi sự tôn trọng những lựa chọn của người ấy về những vấn đề liên quan đến lương tâm và tôn giáo.”


Các tôn giáo thiểu số xứng đáng được bảo vệ; họ có quyền có nơi thờ phượng; các nhân vật và biểu tượng linh thánh của họ “không được đem ra nhạo báng hoặc chế giễu dưới bất cứ hình thức nào”.


Trong một thế giới ngày càng tục hóa và duy vật chất, các thành viên tham dự diễn đàn kêu gọi người Công giáo và Hồi giáo hãy làm chứng nhân cho “chiều kích siêu việt của sự sống.”


“Chúng tôi công nhận rằng người Công giáo và Hồi giáo được kêu gọi trở thành khí cụ cho lòng yêu thương và hài hoà giữa lớp tín đồ và đối với toàn thể nhân loại, chúng tôi phản đối mọi áp bức, xâm lăng, bạo lực và khủng bố.”


Diễn đàn sẽ họp kỳ tới vào năm 2010 tại một quốc gia đa số theo đạo Hồi, nhưng địa điểm chính xác chưa được chọn lựa.


Trình bày bản tuyên bố trong phiên họp công khai ngày 6 tháng 11 tại trường Đại học Giáo hoàng Gregorian ở Roma, giáo sư Joseph Maila, thuộc Học viện Công giáo Paris, nói rằng các tham dự viên đã “đến đây với tâm tình khiêm nhượng để cố hiểu biết nhau.”


Ông nói: “Điều này thật nhiều rủi ro. Chúng tôi chấp nhận nguy hiểm phô bày chính chúng tôi cho phía bên kia khi nói: “Đây là điều chúng tôi tin tưởng. Đây là điều chúng tôi nhắm tới” trong khi biết rõ là phía bên kia có thể thấy được thực tế và thấy được chỗ nào chúng tôi không đạt tới.”


Giáo sư Maila cho biết rằng các tham dự viên “đã thảo luận những sự việc làm ta đau đớn” như bạo lực, thành kiến, thông tin sai lạc và những trường hợp tín đồ không thể thực hiện được đầy đủ niềm tin của họ.


“Tuy chúng ta không thể chịu trách nhiệm về những hành động gây ra do những người thực hiện bạo lực nhân danh tôn giáo” nhưng các tham dự viên đều đồng ý rằng “chúng ta phải có trách nhiệm trình bày hình ảnh chính xác của tôn giáo chúng ta” bằng cách tố cáo những ai lợi dụng tôn giáo mình.”


Bà Ingrid Mattson, chủ tịch Hiệp hội Hồi giáo Bắc Mỹ và là giáo sư về nghiên cứu Hồi giáo tại Chủng viện Hartford ở Connecticut, nói rằng lá thư năm 2007 của 138 học giả Hồi giáo dẫn đưa đến việc thành lập Diễn đàn Công giáo–Hồi giáo, đã được tung ra với một “ý thức khẩn thiết, một ý thức rằng tôn giáo đã trở thành nguốn gốc xung đột theo đường hướng tuyệt đối không thể chấp nhận được.”


Bởi vì, theo lời bà, trong thực tế “hàng ngày,có hàng triệu con người do niềm xác tín vào tôn giáo mà dấn thân vào những hành động đạo đức, hào hiệp và từ bi. Điều thiện hảo đó được thực hiện qua hai nguyên lý thiết yếu: yêu kính Thiên Chúa và yêu thương người lân cận.”


Cho rằng các học giả tham dự diễn đàn này đại diện cho “dòng chính lớn lao của thế giới Hồi giáo”, bà Mattson cho biết họ hứa sẽ mang thành quả trở về các cộng đồng của họ, đẩy mạnh những mối liên hệ tốt đẹp hơn với người Kitô giáo và hoạt động để sự tự do tôn giáo cho mọi người được tôn trọng hơn.


Buổi họp công khai tại trường đại học có thời giờ để công chúng đặt câu hỏi, trong đó có sự lên án người Hồi giáo tại Iraq và nhiều nơi khác ở Trung Đông đã ép buộc người Kitô giáo phải trốn chạy.


Đức hồng y Theodore E. McCarrick, là tổng giám mục Washington hồi hưu và thành viên được Toà thánh Vatican chỉ định tham dự diễn đàn, nói rằng: các buổi họp kín cũng như công khai của diễn đàn đều có “những sự thảo luận thành thực, nhưng thảo luận thành thực là điều quan trọng. Nếu không thành thực thì đều vô dụng.”


Đồng thời, theo lời ngài, cuộc họp cũng được ghi dấu bằng “tình bác ái lớn lao” và niềm ao ước được hiểu biết nhau hơn.


Ngài nói: đương đầu với những khó khăn thực tế trên thế giới, trong đó có sự thiếu tự do tôn giáo “tất cả chúng ta phải cộng tác với nhau. Đây là một tiến trình lâu dài. Chúng ta phải tiếp tục thực hiện; phải tiếp tục đối thoại.”


Đức hồng y Jean-Louis Tauran, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, nói với các thành viên tham dự: “mỗi ngày thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật, hàng triệu tín đồ đi tới thánh thất, nguyện đường hay nhà thờ” để đổi mới niềm tin của mình vào Thiên Chúa và củng cố quyết tâm sống một cuộc đời đạo đức.

“Chúng ta cần tỏ cho thế giới thấy rằng con người sống không nguyên bởi cơm bánh” nhưng cuộc sống đạo đức đó phải gồm cả việc yêu thương người lân cận và vươn tới những người khác bằng các hành động bác ái cụ thể.


“Đối diện với nhân loại khổ đau, chúng ta phải là chứng nhân cho sự kiện là Thiên Chúa đã cho chúng ta một trái tim, sự tự do và thông minh để nhờ đó xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.”

 

Mục lục

 

 

Giám đốc Liên tôn giáo vụ của Do thái gặp Đức giáo hoàng

 

(Thông cáo báo chí)


Roma (AJC) – Giáo trưởng David Rosen, giám đốc quốc tế về liên tôn giáo vụ của Ủy ban Do thái giáo Hoa kỳ (American Jewish Committee - AJC) đã hướng dẫn một phái đoàn Do thái giáo quốc tế đến gặp Đức giáo hoàng Bênêđictô tại Vatican để thảo luận về các vấn đề thiết yếu hiện nay trong các mối liên lạc Công giáo – Do thái giáo. Việc tôn phong hiển thánh cho giáo hoàng Piô XII và việc mở văn khố Vatican lưu trữ những tài liệu trong thời gian thế chiến II là hai vấn đề đứng đầu nghị trình.


Đức giáo hoàng nói với một trong các tham dự viên trong phái đoàn rằng ngài sẽ “thận trọng xem xét lại vấn đề trì hoãn” tiến trình tuyên thánh cho giáo hoàng Piô XII. Đó là lời tường thuật của Giáo trưởng Rosen, trưởng phái đoàn, trong cương vị là chủ tịch Ủy ban Do thái giáo Quốc tế về Tham vấn Liên tôn giáo (International Jewish Committee for Interreligious Consultations (IJCIC). Trong khi một viên chức tại Vatican sau đó cho biết rằng lời tuyên bố của Đức giáo hoàng không phải là một lời cam kết, Giáo trưởng Rosen nói cuộc trao đổi ý kiến với Đức giáo hoàng Bênêđictô thật cởi mở và nồng nhiệt: “Điều Đức giáo hoàng nói chứng tỏ ngài hiểu rõ những vấn đề phức tạp và nhậy cảm của dân tộc Do thái.”


Giáo trưởng Rosen, khi đàm đạo với Đức giáo hoàng nhân danh cộng đồng Do thái quốc tế, đã thúc giục việc mở văn khố của Tòa thánh.


Công nhận rằng một số tín hữu Kitô giáo đã cứu nhiều người Do thái trong cuộc tàn sát tập thể Holocaust, Rosen lặp lại: “Chúng tôi trân trọng kêu gọi để cho các học giả được phép tiếp cận đầy đủ và rõ rệt các văn kiện lưu trữ về thời kỳ đó, hầu cho các định giá về hành động và chính sách trong thời gian đau thương này có được tính khả tín đáng có cả trong hai cộng đồng chúng ta và cả bên ngoài nữa.”


Rosen, người đầu tiên được Đức giáo hoàng Bênêđictô phong tước Trưởng Hiệp sĩ Giáo hoàng và cũng là người Do thái duy nhất, vị giáo trưởng Do thái duy nhất được Tòa thánh Vatican ban danh dự đó, đã bày tỏ tình đoàn kết đồng cảm với những người Kitô giáo đang chịu những bạo lực và bách hại tàn khốc ở nhiều nơi trên thế giới. Đức giáo hoàng cũng bày tỏ lòng tri ân sâu xa về cảm tình đó của ông.”


AJC hy vọng rằng bất cứ quyết định nào liên quan đến việc tuyên thánh cho Đức giáo hoàng Piô XII cũng sẽ đợi cho đến khi văn khố được mở ra trọn vẹn và được các học giả độc lập xem xét.

 

Mục lục

 

 

Phỏng vấn GM Nguyễn Chí Linh về Thượng Hội Đồng Giám Mục và Giáo Hội Việt Nam


PARIS. Giáo xứ Việt Nam, ngày 02 tháng 11 năm 2008 – Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Địa Phận THANH HÓA, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới Rôma, trên đường về, đã đáp lời mời của Giáo Xứ Việt Nam Paris đến thăm Cộng Ðoàn Công Giáo Việt Nam Paris. Ngài đã chủ tế thánh lễ Các Linh Hồn vào chủ nhật 02.11.2008. Sau thánh lễ, Ngài đã chủ tọa lễ chính thức thành lập Hội Tobia, tại Giáo Xứ Việt Nam Paris. Trước thánh lễ, Ngài đã dành cho Giáo Sư Trần Văn Cảnh, biên tập viên Giaoxuvnparis một cuộc phỏng vấn. Ngài đã trả lời những câu hỏi liên quan tới:

• Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Lời Chúa tại Rôma, từ 05 đến 26.11.2008 với đề tài "Lời Chúa trong đời sống và sứ mệnh của Giáo hội".

• Vài nét sống động hiện nay của Giáo Hội Việt Nam

Về Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới

Xin kính chào Đức Cha. Vừa tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Lời Chúa trong 3 tuần lễ, từ 05 đến 26/10/2008, Đức cha có thấy rằng khẩu hiệu của mình « Ut sint unum » đã được thực hiện một cách sống động không?

GM Linh: Vâng đúng thế, Thượng Hội Đồng là một cơ hội khiến tôi cảm thấy như rờ mó được Giáo Hội hữu hình. Các nghị phụ gồm hồng y, giám mục, chuyên gia, hội dòng, giáo dân từ mọi nơi trên thế giới đoàn tụ chung quanh Đức Thánh Cha để thảo luận về vai trò của Lời Chúa trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội. Tôi nghĩ rằng khó có thể tìm được một hình ảnh nào đẹp hơn về tình hiệp thông Giáo Hội hoàn vũ. Tôi cảm thấy khẩu hiệu “Ut sint unum” của tôi thật ý nghĩa.

Xin Đức Cha cho biết cảm tưởng tổng quát của Ngài về Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Lời Chúa vừa qua. Và đặc biệt về Nhóm nhỏ mà Đức Cha đã làm việc.

GM Linh: Đây là lần đầu tiên tôi được diễm phúc có mặt tại một diễn đàn cao cấp như thế. Tôi vô cùng ngưỡng mộ sự uyên bác của các nghị phụ và các chuyên gia. Tôi hãnh diện vì mình thuộc về một Giáo Hội đầy trí tuệ và tri thức. Tôi càng thán phục hơn nữa khi nhận thấy nơi các thành viên Thượng Hội Đồng những mẫu gương đạo đức, thánh thiện. Tôi nghĩ rằng đó là một ngân hàng tinh thần cho Dân Chúa khắp nơi.

Nhóm hội thảo của tôi gồm hàng chục quốc tịch khác nhau. Tôi rất ngạc nhiên và cảm thấy rất ấm áp trong lòng khi thấy mọi người, tuy hầu hết gặp nhau lần đầu, tỏ ra thân thiện với nhau như đã quen từ lâu. Đã có lúc tôi cám ơn Chúa rằng “ Ôi lạy Chúa, Giáo Hội của Chúa đẹp quá".

Trong Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới XII về Lời Chúa, Ý tưởng mạnh nhất đã lôi kéo chú ý của Đức Cha là ý tưởng nào?

GM Linh: Ý tưởng mạnh mẽ nhất được rất nhiều nghị phụ đề cập là tính sống động của Lời Chúa. Lời Chúa không phải chỉ để đọc để hiểu mà thôi. Lời Chúa là Lời để sống, để thực thi. Công giáo không chỉ là tôn giáo của kinh điển nhưng chủ yếu là tôn giáo của cuộc sống.

Trong phiên họp thứ 13 của Thượng Hội Đồng ngày 141008 Đức Cha đã phát biểu về « Sự nâng đỡ của Lời Chúa cho các tín hữu Công Giáo tại Việt Nam, giữa các cơn thử thách, bách hại ». Đức cha có quảng diễn gì thêm cho giáo dân Việt Nam không?

GM Linh: Lời Chúa giúp Giáo Hội Việt Nam vượt qua mọi chông gai thử thách trong suốt dòng lịch sử đầy thăng trầm đã qua. Điều tôi muốn nói thêm là người Kitô hữu VN hãy tin rằng đó là khuôn vàng thước ngọc không những cho quá khứ mà còn cho cả hiện tại và tương lai. Trung thành sống Lời Chúa, Giáo Hội sẽ yên hàn, cuộc đời mỗi người chúng ta sẽ bằng an.

Đề tài về Lời Chúa, như đã được đề cập trong Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới có cần được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam khai triển và cô đọng trong một Thư Mục vụ chung cho giáo dân Việt Nam không? Nếu có, nên đặc biệt chú trọng đến khía cạnh nào? đến Lời Chúa trong Đức Tin, Lời Chúa trong đời sống hay Lời Chúa trong sứ mệnh của Giáo Hội?

GM Linh: Một mình tôi không thể trả lời câu hỏi này. Đưa đề tài Thượng Hội Đồng Giám Mục vào một thư mục vụ hay không, đó là thẩm quyền của tập thể Hội Đồng Giám Mục. Tôi chỉ có quyền gợi ý đề nghị. Đó là điều tôi sẽ làm khi có dịp họp mặt đông đủ Hội Đồng Giám mục Việt Nam

Giáo Hội Việt Nam

Với tinh cách Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức cha đã tham dự mục vụ ở nhiều nơi: Lavang, Phát diệm, Sài gon, …theo Đức cha, hình ảnh nào diễn tả người công giáo Việt Nam hiện nay một cách trung thực hơn cả?

GM Linh: “Hình ảnh trung thực” hơn cả, đó là một khái niệm có tính cách tương đối. Tương đối bởi vì nó hoàn toàn tuỳ theo quan điểm riêng của mỗi người. Theo chủ quan của tôi, hình ảnh diễn tả người công giáo Việt Nam hiện nay trung thực hơn cả là hình ảnh một người giáo dân đang tham gia công trình xây dựng nhà thờ: không hận thù, tạm quên việc sinh kế, hết lòng vì Nước Chúa, vì Giáo Hội…

Giáo Hội Việt Nam hiện nay cần phát triển nhất về mặt nào: về sự sống bí tích? về sự sống đạo, đem đạo vào đời qua bác ái, liên đới và văn hóa? Về sự truyền giáo? Về đời sống tận hiến tu sĩ và giáo sĩ? về đời sống giáo dân trong các vai trò ở xã hội trần thế?...

GM Linh: Tuy cùng thuộc về Giáo Hội Việt Nam nhưng mỗi địa phận, mỗi vùng miền đều có những khó khăn và nhu cầu riêng. Tuy nhiên, nếu phải nói đến một nhu cầu chung cho toàn thể GHVN, tôi nghĩ rằng điều đáng quan tâm nhất là giáo dục đức tin. Xã hội Việt Nam đang đổi thay từng ngày, tích cực cũng có, tiêu cực cũng có. Làm thế nào đầu tư cho Kitô hữu đủ vốn liếng tinh thần để đôi phó với thời đại, đó là yếu tố quyết định sự hưng vong của mọi sinh hoạt tôn giáo còn lại.

Giáo Hội Việt Nam đang chuẩn bị mừng Năm thánh 2010 để kỷ niệm 350 năm Tông Tòa và 50 năm Chính Tòa. Theo Đức Cha, nên làm gì để tỏ lòng biết ơn với sự đóng góp của Các Thừa Sai Hải Ngoại Paris vào việc xây dựng Giáo Hội Việt Nam? Đặc biệt trong việc đào tạo linh mục ở việt nam từ 350 năm qua? Và đặc biệt trong việc tiếp đón và hỗ trợ đào tạo liên tục linh mục việt nam tại Paris từ 20 năm nay?

GM Linh: Lòng biết ơn là một trong những đức tính quý báu nhất của người VN nói chung và của Giáo Hội công giáo Việt Nam nói riêng. Theo chủ quan của tôi, các vị thừa sai phục vụ tại VN là những vị thừa sai hài lòng nhất về xứ truyền giáo của mình. Lòng biết ơn chính là yếu tố đã tạo ra sự hài lòng đó. Giấc mơ của các ngài đó là được thấy một Giáo Hội Việt Nam phát triển bền vững và lâu dài. Thực hiện giấc mơ đó, theo tôi, là cách trả ơn xứng hợp nhất của GHVN.

Năm 2008 này là năm Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt kỷ niệm 50 năm thành lập (1958-2008). Nhưng Giáo Hoàng Học Viện đã đóng cửa từ 33 nămnay, 1975-2008. Theo Đức Cha, có cần phải có một dự án lập một Đại Chủng Viện có tầm vóc quốc gia và quốc tế, kiểu Giáo Hoàng Học Viện chăng?

GM Linh: GHHV tái hoạt động, đó là ý nghĩ mà bất kỳ cựu học viên nào cũng canh cánh bên lòng nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập. Canh cánh bên lòng không phải chỉ vì đó là nơi ghi lại bao kỷ niệm thân thương nhưng còn vì một học viện như thế rất hữu ích cho Giáo Hội Việt Nam. Không những chỉ có lợi cho Giáo Hội mà còn nâng cao uy tín của đất nước Việt Nam, theo nghĩa VN là quốc gia có học viện tầm cỡ quốc tế.

Paris, ngày 02 tháng 11 năm 2008

Trần Văn Cảnh

Mục lục

 

 

 

Yên Bái: một giáo xứ có linh mục quản xứ đầu tiên sau 34 năm

 

YÊN BÁI (UCAN) - Người Công giáo ở một vùng núi phía Bắc, nơi có một số gia đình bị ép chuyển đến cách đây 34 năm, vui mừng có được linh mục quản xứ đầu tiên.

Khoảng 1.000 người Kinh và người H’mông Công giáo đổ xô đến nhà thờ gỗ của họ sáng ngày 23-10 dưới trời mưa lớn, để nghênh đón cha quản xứ đầu tiên của họ - linh mục Phêrô Nguyễn Đình Đền.

Ông Đaminh Trần Văn Hạ, cựu thành viên hội đồng giáo xứ, cho UCA News biết nhà thờ giáo xứ rộng 100 mét vuông không thể chứa tất cả được, vì thế có nhiều người phải đứng bên ngoài để tham dự Thánh lễ nhận xứ của cha Đền ở xã Mỹ Hưng, huyện Trấn Yên, cách Hà Nội 215 km về phía bắc.

Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thái, quản hạt Yên Bái, chủ sự Thánh lễ cùng với 12 linh mục đồng tế.

"Nhiều người giáo dân chúng tôi đã khóc vì vui mừng lần đầu tiên có cha xứ mới tới ở hẳn với bà con. Tạ ơn Thiên Chúa đã không bỏ rơi đoàn chiên bé nhỏ và nghèo nàn nơi rừng núi này", ông Hạ nói. Cho đến nay, linh mục ở giáo xứ Yên Bái, cách đó 35 km, thăm viếng mục vụ nơi này hàng tháng.

Ông bố 61 tuổi của bốn người con nói gia đình ông cùng 53 gia đình Công giáo khác từ tỉnh duyên hải Nam Định chuyển đến vùng núi xa xôi của tỉnh Yên Bái này năm 1974, khi chính quyền bắt người dân đi kinh tế mới. Vùng đất này cách bờ biển hơn 200 km.

Trong 19 năm sau đó họ thường tập trung tại nhà từng người đọc kinh vào các tối Chúa nhật, và linh mục ở nơi khác viếng thăm họ 2-3 lần mỗi năm. Sau đó giáo dân ở đây mua một lô đất rộng 1.000 mét vuông và dựng ngôi nhà thờ hiện nay năm 1993, ông Hạ giải thích. Họ góp tiền cùng với tiền giáo phận Hưng Hoá cho để mua đất làm nhà thờ.

Họ tiếp tục mua thêm đất xung quanh nhà thờ và một số người Công giáo dâng đất cho nhà thờ, vì thế khuôn viên nhà thờ mới rộng được 10.000 mét vuông, người nông dân trồng lúa và chè nói thêm.

Giáo xứ, được thành lập ngày 29-6-2007, hiện có 3.000 người Công giáo trong đó có 2.200 người dân tộc H’mông, họ từ các tỉnh Lai Châu và Sơn La, và các huyện Trạm Tấu và Văn Chấn ở tỉnh Yên Bái chuyển đến vùng này khoảng từ năm 1950 đến 1983.

Theo ông Hạ, giáo dân ở đây nghèo khổ lắm. Mỗi gia đình chỉ có 1.000 mét vuông đất và chỉ kiếm được 10 triệu đồng nhờ trồng lúa và chè. Họ cũng rất buồn vì không thể xây nhà xứ mới cho cha Đền, ngài phải ở trong căn phòng rộng 10 mét vuông, ông nói thêm. Nhà xứ cũ bằng gỗ đang xuống cấp.

Ông Hạ còn nói trước đây sau Thánh lễ Chúa nhật giáo xứ lo ăn cho người H’mông sống trong các làng cách nhà thờ từ 10-40 km, để họ có thể no bụng đi bộ về nhà. Nhưng các ân nhân nước ngoài lo chi phí mua thức ăn gần đây đã không còn trợ cấp nữa.

Maria Sùng Thị Máy, một phụ nữ H’mông đeo con trên lưng, nói với UCA News rằng chị cầu nguyện cho linh mục tân quản xứ giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. 300 người H’mông tham dự Thánh lễ hôm đó không có gì bỏ bụng vì linh mục tân quản xứ không có tiền để mua thức ăn cho họ, chị nói.

Cha Đền, 35 tuổi, cựu phó xứ của giáo xứ Yên Bái, phát biểu với UCA News rằng ngài mong được làm cha xứ trong vùng nghèo nàn này. "Thôi mọi sự tôi chỉ biết phó thác cho Chúa an bài", ngài nói.

Tuy nhiên, vị linh mục quê ở Phú Thọ chịu chức tháng 11 năm ngoái, lo lắng không biết làm thế nào để lo ăn cho hàng trăm người H’mông vào các ngày Chúa nhật. "Nhìn thấy họ dự lễ xong rồi mẹ con địu nhau nhịn đói ra về, thậm chí còn đi bộ về nhà ở trên núi cách hàng chục km mà tôi không cầm được nước mắt. Hy vọng trong tương lai sẽ có người giúp đỡ cho họ ăn mỗi khi về dự lễ", ngài nói thêm.

Cha Thái, chánh xứ An Thịnh, cho biết hạt Yên Bái có 17 giáo xứ với 50.000 giáo dân do 11 linh mục phục vụ. Cách đây 10 năm giáo hạt chỉ có ba linh mục.

 

UCA News

Mục lục

 

“PHẢI CAN ĐẢM LOAN BÁO TÌNH YÊU VÀ TỰ DO ĐÍCH THỰC CỦA TIN MỪNG”

 

Phỏng vấn Đức Tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm

 

Từ ngày 15.10.2008, Giáo phận TPHCM sẽ có thêm một Giám mục Phụ tá :Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm(ĐGM.NVK), 56 tuổi. Vị tân chức rất quen thuộc với giáo dân trong và ngoài giáo phận qua những bài giảng lôi cuốn của mình đã dành cho báo Cg&Dt cuộc phỏng vấn đầu tiên trong cương vị mới. Tin vui xin mạn phép ghi lại bài phỏng vấn này để giới thiệu cùng bạn đọc gần xa.

 

Hỏi : Xin chào mừng Đức cha vừa được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá II TPHCM. Đã khá lâu nay, tin này được nhiều người nhắc đến, và hôm nay đã là hiện thực. Chính xác thì, cho đến lúc nào thì Đức cha biết mình được chọn vào cương vị này?

 

ĐGM. NVK : Cũng như anh thôi, tôi chỉ nghe tin hành lang. Còn chính thức thì vào ngày 2.10.2008, Đức Hồng y gọi tôi lên, cho biết việc Tòa Thánh muốn bổ nhiệm tôi làm Giám mục phụ tá Tồng giáo phận Thành phố. Sau đó, hai cha con cùng soạn lá thư trả lời cho Đức Hồng y Bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các dân tộc.

 

Hỏi : Giáo phận TPHCM luôn được xem là giáo phận đa dạng, phong phú về các mặt. Đó có là áp lực với Đức cha trong cương vị mới ? Những dự định của Đức cha sau khi nhậm chức Giám mục Phụ tá TGP.TPHCM ?

 

ĐGM. NVK :Tôi không có dự định riêng nào cả. Dự định mục vụ là dự định chung của cả gia đình giáo phận, trong đó Đức Hồng y Gioan Baotixita là người cha chung. Cùng với các linh mục, tu sĩ và anh chị em giáo dân, ngài đưa ra kế hoạch mục vụ và tôi phụ giúp ngài trong việc triển khai những kế hoạch đó. Khi biết tôi được gọi làm giám mục, có giáo dân viết thư chúc mừng và hứa là sẽ cầu xin Chúa cho tôi được hai ơn này là ơn khôn ngoanơn chịu khó. Hơn ai hết, anh chị em giáo dân biết rõ các mục tử cần gì và sẵn lòng nâng đỡ. Được như thế, tôi cảm thấy rất an tâm chứ không lo âu sợ hãi cho dù như anh nói, trách nhiệm mới có thể là áp lực lớn cho đời sống của mình.

 

Hỏi : Đức cha vui lòng cho độc giả biết ít nhiều về hành trình ơn gọi của mình. Những kỷ niệm nào là đáng nhớ của Đức cha trong 28 năm làm linh mục giáo phận TPHCM ?

 

ĐGM.VNK :Câu hỏi của anh làm tôi liên tưởng đến một phương pháp cầu nguyện gọi là Kinh nguyện hồi tưởng, nghĩa là nhìn lại cuộc đời mình để khám phá sự hiện diện yêu thương của Chúa. Riêng tôi, cảm nghiệm xuyên suốt hành trình ơn gọi là Thiên Chúa dẫn mình đi bằng những nẻo đường hết sức bất ngờ, vượt ngoài những suy nghĩ và tính toán tự nhiên. Cảm nghiệm đó nhắc nhở tôi sống phó thác, cậy trông và khiêm tốn.

 

Hỏi : Đức cha từng du học và có bằng Tiến sĩ Thần học Mục vụ tại Mỹ và cũng đã nhiều năm nay làm Giám đốc Trung tâm Mục vụ Tồng Giáo phận TP.HCM. Đức cha cũng nổi tiếng với những bài giảng thuyết thu phục lòng người Công giáo mọi giới. Đây có là những thuận lợi của Đức cha trong vai trò Giám mục ?

 

ĐGM. NVK :Tôi đi du học khi đã 48 tuổi và sau 20 năm làm linh mục. Lớn tuổi nên khả năng tiếp thu chắc bị giới hạn hơn. Bù lại, những kinh nghiệm mục vụ lại cho tôi một cơ sở để đối chiếu, nhận định và lượng giá những kiến thức mà các giáo sư trình bày. Khi về nước nhận nhiệm vụ Giám đốc Trung tâm Mục vụ, hạnh phúc của tôi là có được những anh chị em cùng chí hướng, hiệp nhất yêu thương nhau, cùng nhau triển khai và thực hiện những kế hoạch mục vụ. Bên cạnh đó, lại có sự tham gia tích cực của đông đảo anh chị em tu sĩ và giáo dân vào những chương trình đào tạo và sinh hoạt tại Trung tâm Mục vụ. Chắc chắn đây là những thuận lợi cho tôi trong nhiệm vụ mới.

 

Hỏi : Quan niệm và kinh nghiệm của Đức cha về mục vụ của linh mục ở thời đại “thế giới phẳng” hôm nay?

 

ĐGM. NVK :Một câu hỏi không dễ trả lời ! Bởi lẽ chưa chắc chúng ta đã đồng ý với nhau về khái niệm “thế giới phẳng”. Nếu hiểu “thế giới phẳng” như Friedman, tác giả cuốn The World is Flat và là người phổ biến khái niệm về thế giới phẳng, thì khái niệm này diễn tả tiến trình toàn cầu hóa kinh tế, trong đó sự phát triển rất nhanh của những phương tiện truyền thông hiện đại đã tạo cơ hôị phát triển đồng đều cho mọi người và mọi dân tộc. Cụ thể như Ấn Độ, Trung Quốc, Ái Nhĩ Lan, chỉ trong thời gian ngắn đã đạt đến sự phát triển kinh tế cao. Thế nhưng không phải mọi người đếu đồng ý với quan điểm của Friedman vì khi nhìn vào thế giới hôm nay, người ta e rằng tiến trình toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho hố ngăn cách  giầu nghèo càng lúc càng lớn hơn, và không phải mọi người, mọi dân tộc đều có cơ hội phát triển như nhau. Đó là mới chỉ nói đến toàn cầu hóa kinh tế, còn khi bàn đến toàn cầu văn hóa, sẽ có biết bao câu hỏi được đặt ra. Thế nhưng đây là câu hỏi không thể trả lời đơn giản.

 

Còn nếu hiểu khái niệm thế giới phẳng như hình ảnh tổng quát về toàn cầu hóa, đặc biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin thì về mặt mục vụ, tôi nghĩ đến hai khía cạnh là chủ thể và nội lực. Chủ thể ở đây là người sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại, đặc biệt là internet. Ngày nay, mọi người, cách riêng các bạn trẻ, có thể đi vào xa lộ thông tin vô cùng phong phú, là nguồn phát triển tri thức về mọi lãnh vực. Thế nhưng sự phong phú về lượng không nhất thiết đồng nghĩa với phong phú về chất. Thực tế là xa lộ thông tin đó có thể giúp ta phát triển tri thức, mở rộng tâm hồn, nâng cao cuộc sống. Nhưng xa lộ đó cũng có thể nhận chìm suy tư sáng tạo cá nhân, làm nghèo tâm hồn và nhân cách. Tất cả tuỳ khả năng phân định và chọn lựa của chủ thể tức là người sử dụng phương tiện truyền thông. Cũng vì thế, gắn với chủ thể là nội lực, nghĩa là làm sao để chính mình có khả năng nhận định và chọn lựa đúng sai, tốt xấu. Đây không chỉ là chuyện của tâm hồn. Bằng chính công việc bổn phận của mình như giảng Lời Chúa, dạy giáo lý, đồng hành thiêng liêng, linh mục có thể góp phần tích cực vào việc phát huy nội lực của mỗi chủ thể, nhờ đó họ biết sử dụng những phương tiện truyền thông cách ích lợi nhất, cho  mình và cho cộng đồng.

 

Hỏi : Năm 1990, ở một dịp chia sẻ với một số linh mục ở TPHCM, Đức cha đã nêu lên những ý tưởng mà giờ đây khi gẫm lại, ai cũng thấy đó là những suy nghĩ mang tính tiên đoán rất có tầm nhìn. Đó là : “Những năm sắp tới, khi ảnh hưởng của cuộc cách mạng  khoa học kỹ thuật ngày càng lan rộng, sẽ có những biến chuyển về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng tác động trên con ngươì và lối sống của họ. Vì vậy muốn phục vụ cách hữu hiêụ, linh mục không thể không quan tâm đến để có được những nhận định đúng đắn và định hướng cho công cuộc tông đồ của mình…”Theo Đức cha, những linh mục của Giáo hội Việt Nam hôm nay đã có sự chuẩn bị đủ chưa trước những biến đổi  này trong xã hội ?

 

ĐGM. NVK :Thực ra, đây không phải là những suy nghĩ của cá nhân tôi mà là chỉ dẫn của Giáo hội. Ngay trong sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống linh mục của Công đồng Vatican II, nghĩa là từ hơn 40 năm trước, đã có những chỉ dẫn này rồì, và trong những tài liệu sau này liên quan đến các linh mục, Giáo hội vẫn không ngừng nhắc lại. Tôi chỉ vận dụng những chỉ dẫn này vào hoàn cảnh hiện tại và chia sẻ với anh em của mình, nhất là các linh mục trẻ. Linh mục được sai đến để phục vụ con người. Con người đó là con người muôn thuở với những vấn đề muôn thuở. Nhưng con người đó cũng là con người hôm nay với những vấn đề của hôm nay. Vì thế linh mục phải quan tâm đến những biến chuyển của thời đại để có thể phục vụ hữu hiệu hơn. Đây cũng là lý do Đức Hồng y Gioan Baotixita quan tâm đặc biệt đến việc thường huấn linh mục, tức là tiếp tục đào tạo linh mục sau khi đã chịu chức. Chắc chắn là mỗi linh mục đều ý thức về điều này, còn đã chuẩn bị đủ chưa thì  không thể đưa ra một khẳng định vội vã vì ngày nay, xã hội biến chuyển rất nhanh, đa dạng và phức tạp.

 

Hỏi : Trong một bài viết của mình cách đây 15 năm, Đức cha đã viết : “…Cuộc sống hôm nay vẫn luôn có những ông Pharisêu hiện đại chỉ chực chờ biến tôn giáo thành cánh rừng lệ luật, với những tầng lá thật dày che khuất cả ánh Thái dương muốn truyền thông sự sống. Vẫn còn đó một lối trình bày tôn giáo như bộ luật hoàn chỉnh nhất nhưng chẳng thấy đâu bộ mặt của Đức Giêsu…” Sau gần ấy thời gian với những trải nghiệm và quan sát tiếp tục, Đức cha nhận định về vấn đề này như thế nào ?

 

ĐGM. NVK : Trong thập niên 90 (thế kỷ 20) tôi thường xuyên đồng hành và làm việc chung vớí các bạn trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau. Những dòng trên đây nằm trong bài giới thiệu cho các bạn trẻ về một tác phẩm của cha Michel Quoist, cuốn Hãy nói cho tôi về tình yêu. Thiết nghĩ những nhận xét trên đây vẫn còn đúng cách này cách khác, nơi này nơi kia trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội. Nói cho đầy đủ hơn, vẫn luôn có khuynh hướng nhân danh lề luật để bóp chết tình yêu và tự do, nhưng cũng có khuynh hướng nhân danh tình yêu để che giấu sự ích kỷ và lối sống buông thả, nhân danh tự do để làm “màn che sự gian ác”(1 Phêrô 2, 16). Bổn phận của chúng ta là phải sáng suốt phân định và can đảm loan báo tình yêu và tự do đích thực của Tin Mừng.

 

Hỏi : Đức cha có thể vui lòng cho bạn đọc biết khẩu hiệu Giám mục và biểu tượng huy hiệu Giám mục của mình ? Ý nghĩa của những chọn lựa đó ?

 

ĐGM. NVK :Ý thức rằng làm linh mục hay giám mục cũng chỉ là đáp trả tiếng gọi của Chúa, và dù có làm gì đi nữa thì ơn gọi căn bản vẫn là làm người môn đệ của Thầy Giêsu, nên tôi chọn khẩu hiệu “ Hãy theo Thầy”(Ga 21, 19). Còn huy hiệu là logo của Trung Tâm mục vụ giáo phận TP.HCM. Huy hiệu ấy làm thành bởi hai chữ M và V (Mục Vụ) được trình bày như hai trái tim đan quyện vào nhau, và giữa lòng hai trái tim là Thánh giá, Tình yêu Giêsu. Tôi chọn huy hiệu đó vì chính từ Trung tâm Mục vụ này mà tôi được gọi làm giám mục, và logo đó diễn tả tâm niệm của anh em chúng tôi khi làm việc chung với nhau tại đây, đó là để cho trái tim mình đan kết với trái tim Chúa, tập mang trong lòng mình những tâm tư của Chúa (x. Phil 2, 5), để rồi có thể đến với mọi người anh chị em bằng tâm tư của Thầy Giêsu.

 

Hỏi : Lễ tấn phong Giám mục Phụ tá II của TGP.TPHCM sẽ diễn ra ở đâu và khi nào, thưa Đức cha ?

 

ĐGM. NVK : Đức Hồng Gioan Baotixita đã ấn định lễ phong chức sẽ được cử hành lúc 7g00 Thứ Bảy 15.11, tại khuôn viên Đại chủng viện Thánh Giuse.

 

Hỏi : Đức cha có nhắn gởi gì với những linh mục tu sĩ và bà con giáo dân xa gần ?

 

ĐGM. NVK : Tôi đâu dám nhắn nhủ gì, chỉ xin gửi đến tất cả quý cha, quý tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân lời cảm ơn hết sức chân thành của tôi, vì mọi người đã thương nhớ đến và cầu nguyện cho tôi trong dịp này. Xin tiếp tục đồng hành với tôi trong nhiệm vụ mới, chỉ bảo cho tôi những khi tôi thiếu sót, và tiếp tục cầu nguyện cho tôi trong bước đường sắp tới.

 

Lê Hữu Tuấn thực hiện

Mục lục

Thư  Của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt kêu gọi giúp đỡ nạn nhân lũ lụt miền Bắc

 

TÒA TỔNG GIÁM MỤC                     Thư chung của Đức Tổng Giám mục Giuse

40, Nhà Chung – HÀ NỘI                      Gửi

                 Các Linh mục, Tu sĩ nam nữ, Chủng sinh

                 Và Anh chị em Giáo dân Tổng Giáo phận Hà nội

                 Kêu gọi giúp đỡ nạn nhân lũ lụt miền Bắc

 

 

Hà nội, ngày 6 tháng 11 năm 2008

Anh chị em thân mến,

 

Từ một tuần qua, mưa lớn kéo dài đã gây nên ngập lụt trong nhiều tỉnh phía Bắc, đặc biệt tại thủ đô Hà nội. Số người thiệt mạng đã lên đến con số kỷ lục trong một đợt mưa, 79 người. Trong số đó có chị Madalêna Hân, 33 tuổi, giáo dân của giáo xứ Đồng Chiêm, huyện Mỹ đức, mới được sát nhập vào thành phố Hà nội.

 

Chúng tôi đã đi thăm những nơi ngập sâu và thấy tại thành phố có nhiều nhà cửa và đồ đạc bị hư hỏng, tại miền quê nhiều hoa mầu mất trắng. Chắc chắn sự thiệt hại là rất lớn. Và để khắc phục những hậu quả sẽ còn tốn kém nhiều hơn nữa.

 

Vì thế xin Quý Cha hãy nhanh chóng tổ chức quyên góp trong các giáo xứ. Xin anh chị em hãy rộng tay đóng góp để trợ giúp các nạn nhân vượt qua khó khăn về tinh thần cũng như vật chất. Chắc chắn trận lụt có ảnh hưởng tới mọi người chúng ta, nhất là trong tình hình kinh tế hiện nay. Nhưng trong tinh thần lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát, anh chị em hãy quảng đại thể hiện đức bác ái của Chúa, tình tương thân tương ái của nhân loại và nghĩa đồng bào của dân tộc trong dịp này.

 

Ngoài ra, tại các địa phương, anh chị em hãy tích cực tham gia công tác phòng chống lũ lụt, hộ đê, cứu người. Với sự  chung tay góp sức của mọi người, chúng ta mới có thể ngăn chặn được tai họa, không để tổn thất thêm về tài sản và nhất là về nhân mạng nữa.

 

Tôi gửi lời thăm hỏi ân cần tới những gia đình có người thiệt mạng, có tài sản bị hư hại. Xin Chúa chúc phúc cho anh chị em vì có tấm lòng quảng đại biết cảm thương và chia sẻ với tha nhân trong cơn hoạn nạn.

 

Thân ái chào anh chị em

 

+ Giuse Ngô quang Kiệt

Tổng Giám mục Hà nội

 

Mục lục

LỄ KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ DUY LINH, GIÁO PHẬN BUÔN MA THUỘT

 

Từ 7giờ sáng ngày 28/10/2008, dưới ánh nắng ban mai êm dịu của những ngày cuối thu, từ trên dốc cao phía Bắc thành phố Buônmathuột.Người ta có thể nhìn thấy dòng người đổ về thung lũng Suối Bà Hoàng, để “lên Đền”- Bên kia thung lũng, một ngôi thánh đường giáo họ vừa mới được hoàn thành, với tháp chuông vươn cao vút trên nền trời xanh thẳm, chung quanh thánh đường có những hàng cây tùng bách thẳng tắp. Những làn gió thu lay động hoa lá bên đường dường như đón chào quan khách. Những dải cờ đủ sắc màu giăng mắc đó đây, tiẽng nhạc thánh ca từ những loa phóng thanh ngân vang xa càng làm cho lòng người thêm rộn rã. Bà con giáo họ rất hân hoan.

Đúng 9giờ đoàn rước ĐGM Giám quản tông tòa Phaolô Nguyễn Văn Hòa và trên 40 Linh mục thuộc giáo phận BMT tiến về tiền giáo đường trong tiếng nhạc hoành tráng của ban kèn đồng. ĐGM làm phép chuông và cắt băng khánh thành nhà thờ giáo họ Duy Linh. Sau nghi thức xông hương và làm phép bàn thờ và nhà thờ, cao điểm và quan trọng nhất vẩn là Thánh lễ đồng tế Tạ ơn.

Trong bài giảng, ĐGM đã ân cần nhắc nhở mọi Kitô hữu có nhiệm vụ chuyển ơn Cứu Độ và Tình yêu của Đức Kitô nhận từ nơi Thánh đường được cụ thể hóa đến những người chung quanh qua cuộc sống đời thường, lan tỏa đến mọi nơi, không phân biệt tôn giáo, vùng miền, và phải thực hiện trong sự hiệp nhất với Hội Thánh của Chúa Giêsu, trong Tinh thần là Đức Chúa Thánh Thần và Chân lý là Đức Kitô…

Tham dự thánh lễ còn có đại diện các dòng tu trong giáo phận, đại diện Tôn giáo bạn, đại diện Chính quyền các cấp và đông đảo bà con giáo dân xa gần. Buổi lễ diễn ra thật trang nghiêm, sốt sắng…

Theo kỷ yếu giáo phận Banmêthuột, từ năm 1948 thị xã Banmêthuột được mệnh danh là “Hoàng triều cương thổ” (Domaine de la couronne). Sở dĩ có biệt danh này là vì từ khi vua Bảo Đại lên ngôi, ngoài những lần sang Pháp để bàn quốc sự, khi trở về Việt Nam, vua thường ở Banmêthuột hơn là ở kinh đô Huế. Vì thế công chức và quân đội cùng gia đình của họ được đưa lên sống tại Banmêthuột. Ngoài ra, sau 1954 số người di cư đến đây lập nghiệp cũng khá nhiều…Vì thế năm 1962, trước khi giáo phận Banmêthuột được thành lập (1967), cha cố J.B Trần Thanh Ngoạn, Chính xứ giáo xứ Thánh Tâm, kiêm Hạt trưởng hạt Banmêthuột, đã thai nghén ý định lập một Họ đạo nằm bìa rừng phía Bắc của thị xã.- một thung lũng với dòng suối trong xanh hiền hòa lượn khúc, rất tiện lợi cho việc trồng trọt hoa màu. Nơi đây có một số gia đình công giáo di cư từ Bắc đến đây lập nghiệp. Họ là những nông dân cần cù, chân chất, quen lề thói quê cũ nên rất siêng năng kinh sách ở nhà thờ. Từ sáng sớm họ đến nhà thờ Thánh Tâm dự lễ, phải đi qua những đoạn đường đất đỏ, vượt một con dốc cao dài khoảng 01 cây số. Vào mùa đông, những luồng gió thổi mạnh cuốn theo bụi đất mù mịt, nhiều lúc phải quay người ngược chiều gió để bụi khỏi tạt vào mặt. Mùa mưa đường dốc trơn trượt như bôi mỡ, việc đi lại rất khó khăn. Thế mà họ vẫn siêng năng đi dự lễ mỗi buổi sớm. Đối với họ Thánh Thể là lương thực tinh thần không thể thiếu được.

Tuy rất mong muốn có nhà nguyện, nhưng vì cuộc sống của bà con giáo dân còn khó khăn nên mãi đến 1965, hai gia đình ông Micae Vũ Đình Cư và ông Đaminh Lê Văn Đạm dâng hiến phần đất hơn 4.000m2 làm mặt bằng, cha sở và 18 gia đình công giáo ở đây cùng một số ân nhân khác đã xây ngôi nhà nguyện 60m2 gồm 3 gian lợp tôn. Ngày 25/11/1965, cha JB.Trần Thanh Ngoạn đã dâng thánh lễ đầu tiên, bà con giáo dân vui mừng khôn xiết. Năm 1966, cha sở giúp thực hiện một nhà hội chung bằng gỗ Trong buổi họp đầu tiên, các gia trưởng đã nhất trí đặt tên là giáo họ Duy Linh ( duy nhất một Thần Linh), theo người công giáo Thần Linh đó chính là Thiên Chúa, Gioan thánh sử định nghĩa : “Thiên Chúa là Tình yêu”, vì thế trên mặt tiền nhà thờ Duy Linh có ghi hàng chữ THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU.

Đầu năm 1967, vì thời cuộc, cha Irênê Nguyễn Bình Tĩnh, nguyên chánh xứ giáo xứ Quảng Nhiêu, được Đức Giám mục Paul Seizt đưa về tạm trú tại nhà thờ Duy Linh. Tuy chỉ giúp trong thời gian ngắn, nhưng ngài rất quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất của bà con giáo dân, nhờ đó giáo họ có ghế quỳ, chuông , trống và những đồ dùng phụng tự.

Ngày 15/10/1967, cha Chính Trần Thanh Ngoạn đã chính thức lập bộ hộ tịch cho giáo họ Duy Linh - đứa con đầu lòng của giáo xứ Thánh Tâm, nhận Đức Mẹ Mân Côi làm bổn mạng. Một số nữ tu dòng Nữ Vương Hòa Bình được gởi đến, mở 2 lớp mẫu giáo và 01 lớp một, giúp các trẻ em về văn hóa và giáo lý. Cuối năm 1967, tình hình yên ổn, cha Nguyễn Bình Tĩnh trở về lại giáo xứ Quảng Nhiêu. Cho đến nay người giáo dân Duy Linh vẫn coi ngài như Cha Bổn sở của họ. Năm 1969, cha Giuse Trịnh Chính Trực, nguyên Quản xứ giáo xứ Thánh Tâm, xây thêm một phòng áo và 2 phòng giáo lý. Đời sống bà con giáo họ rất đạo đức và chan hòa yêu thương nhau.

25 năm sau, năm 1994, qua gợi ý của ĐGM Giuse Trịnh Chính Trực, cộng đoàn tu viện Nữ Vương Hòa Bình chia sẻ cho giáo họ 1.500m2, nâng tổng diện tích hơn 5.000m2.

Từ đó nhờ sự quan tâm, nâng đỡ về mọi mặt của các đời cha quản xứ giáo xứ Thánh Tâm, từ 18 gia đình công giáo (1965) đến nay đã tăng 265 gia đình với 1.250 nhân danh, nên ngôi nhà thờ cũ đã trở nên quá tải mặc dù đã mấy lần tu sửa.

Sau khi được sự đồng ý của giáo quyền và chính quyền, ngày 11/04/2008 giáo họ khởi công xây nhà thờ mới với diện tích 742m2, ĐGM Phaolô Nguyễn Văn Hòa cử hành nghi thức đặt Viên đá đầu tiên vào ngày 28/10/2008. Sau hơn 18 tháng thi công, cộng đoàn giáo họ Duy Linh đã có một ngôi thánh đường khang trang nằm trên sườn đồi cao, có núi Đức Mẹ lớn trong khuôn viên rộng rãi.

Từ tiền đường nhà thờ người ta có thể nhìn thấy những vườn rau xanh tươi dưới chân đồi, tạo nên một khung cảnh yên tĩnh, thanh bình. Phóng tầm mắt qua thung lũng, phía trên đầu dốc là mặt sau của những dãy nhà xây đủ kiểu dáng san sát nhau của một khu thành phố ồn ào xe cộ. Tuy nhiên vẫn không làm mất vẻ trang nghiêm và thanh bình của ngôi thánh đường giáo họ Duy Linh . Có lẽ vì yêu thích vẻ thạnh tịnh mà nhiều người từ nơi khác cũng đến đây dự lễ vào những chiều chủ nhật.

ANH THƯ

Mục lục

Nhóm công nhân nhập cư Vạn Thành tại Tân Việt - một hình thức sống Tin Mừng nơi môi trường đô thị

 

Nếu có dịp tham dự Thánh lễ II vào chiều Chúa nhật hằng tuần tại nhà thờ Tân Việt - Sài Gòn, bạn tranh thủ ghé qua dãy nhà giáo lý của giáo xứ, sẽ thấy những lớp học rất khác nhau. Đây không phải là những lớp giáo lý theo lứa tuổi, nhưng có đủ mọi thành phần và lứa tuổi, lớn nhỏ khác nhau. Đó là những lớp học giáo lý của anh chị em công nhân nhập cư từ giáo xứ Vạn Thành - Hà Tĩnh và một số xứ đạo thuộc Giáo phận Vinh, đang lao động và sinh sống ở Sài Gòn. Được đến lớp “bổ túc giáo lý” hằng tuần, các bạn đã cố gắng rất nhiều với sự giúp đỡ của nhiều người. Đây là một môi trường lành mạnh giúp các bạn học hỏi giáo lý, Kinh Thánh và chia sẻ cho nhau kinh nghiệm sống đức tin nơi môi trường đô thị.

1. Vạn sự khởi đầu nan


Năm 1998 thầy Thạch Thành, dòng Phanxicô và một nhóm bạn đã nhen nhóm và quy tụ các bạn trẻ ở Hà Tĩnh vào làm ăn sinh sống ở Phường 13, Quận Tân Bình. Với mục tiêu là giúp các bạn trẻ sống đạo lành mạnh nơi môi trường đô thị đầy cạm bẫy và thử thách. Đồng thời cũng giúp các bạn ý thức xây dựng tình đoàn kết và tương trợ nhau trong cuộc sống, trong công ăn việc làm và nhất là những lúc gặp hoạn nạn và rủi ro. Ngoài ra, họ cũng nhắm tới việc giúp các bạn tiếp cận những giá trị tốt của lối sống mới và xa tránh những tệ nạn xã hội.


Tuy vậy, họ đã gặp nhiều khó khăn trong những ngày đầu quy tụ Nhóm. Trong thời gian đầu này các bạn không mấy “mặn mà” với những buổi gặp gỡ và họp mặt. Một phần vì các bạn rất mặc cảm với những nghề lao động tay chân của mình như làm hồ, thợ may, thợ sơn, giúp việc nhà… Mặt khác nhiều bạn không thu xếp được thời gian, thiếu phương tiện để tham gia nhóm, vì đa số các bạn mới tập làm cư dân “xì phố” nên còn “lạ nước lạ cái”.


Nhưng những ngày tháng đầu khó khăn cũng qua, đến năm 2000 họ quy tụ được một nhóm khoảng 100 bạn trẻ, đi vào sinh hoạt vài tháng một lần. Rồi sau đó, bạn này kéo thêm bạn khác và thế là “dân số” không ngừng tăng lên. Tính đến năm 2008, Nhóm có đến trên 300 thành viên.


Nhóm các bạn công nhân với tên gọi Vạn Thành - Tân Việt này lớn dần lên với sự giúp đỡ của các cha, các tu sĩ đồng hương thuộc các dòng như: Phan Sinh, Đa Minh, Nữ Bác Ái – Vinh và các bạn sinh viên nhiệt thành khác. Trong đó, người yêu thương và cưu mang các bạn nhiều nhất là Lm. Antôn Nguyễn Đình Thục, cha sở Giáo xứ Tân Việt. Ngài đã tạo mọi điều kiện tốt nhất về tinh thần và vật chất, để cho các bạn tổ chức các ngày lễ, các dịp gặp mặt và học giáo lý tại giáo xứ của ngài.

2. Lớn lên trong âm thầm


Như những hạt giống được gieo vãi sẽ lớn lên, đơm bông và kết trái, Nhóm lao động nhập cư Vạn Thành-Tân Việt cũng đã lớn lên một cách độc lập, không lệ thuộc nhiều vào những người đã từng giúp họ. Các bạn trong Nhóm đã điều hành và tổ chức mọi sinh hoạt của Nhóm. Các cha, các tu sĩ chỉ còn là người hỗ trợ về mặt tinh thần và chuyên môn mà thôi.


Năm nay các bạn mừng sinh nhật lần thứ 8 với nhiều mừng vui. Mừng vì có rất đông các bạn xuất thân từ Nhóm đã trưởng thành, lập gia đình, trong số đó có một số bạn đã lập nghiệp ở thành phố. Đến lượt, các bạn này trở thành hậu phương cho các thế hệ sau mình về vật chất và tinh thần. Anh Thỏa, hiện là thành viên ban đại diện của Nhóm, có lần tâm sự với tôi: “Em tuy phải gánh vác chuyện gia đình vợ con, nhưng không thể bỏ rơi các bạn trẻ được. Mình giúp được gì thì giúp, có Chúa biết là đủ rồi” .


Một vài bạn khác trở thành người hướng dẫn giáo lý cho các bạn mới. Công việc thật khó khăn với các bạn, nhưng vừa học vừa làm rồi cũ ng quen. Đến nay, các bạn đã thay thế được những người đã từng giúp mà nay vì công việc đã đi xa. Sự tồn tại và lớn lên của nhóm công nhân này là nhờ có sự kế tục: lớp lớn trưởng thành ra đời, lớp nhỏ vào thay thế, và cứ thế theo dòng chảy của cuộc sống các bạn lại tìm đến với nhau.

Hiện tại Nhóm đã tổ chức được 3 học lớp giáo lý (Kinh Thánh, Vào Đời và Tiền Hôn Nhân) cho 90 bạn trẻ đang trong độ tuổi học giáo lý và những bạn sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình. Cùng với sự giúp đỡ của một số tu sĩ, các lớp học này được duy trì đều đặn vào tối Chúa Nhật hằng tuần tại giáo xứ Tân Việt.


Thời gian học trong năm của các lớp giáo lý bắt đầu từ tháng 3 (Sau Tết Nguyên Đán) đến tháng 01 năm sau. Các bạn tham gia lớp giáo lý sẽ được cấp “Giấy chứng nhận” nếu đáp ứng đủ các yêu cầu của lớp học. Cha sở ở các giáo xứ mà các bạn xuất thân sẽ miễn việc học giáo lý bắt buộc cho các bạn khi họ tham gia tích cực vào các lớp học trên và có chứng nhận của Nhóm.


Có thể nói nhờ sự đoàn kết, yêu thương và ý thức được giá trị của sinh hoạt nhóm và các lớp học, các bạn công nhân nhập cư trẻ bạn trẻ Vạn Thành -Tân Việt đã âm thầm lớn lên về mọi chiều kích của cuộc sống và đạt được những mục tiêu cao đẹp của cuộc sống nơi đô thị.


3. Đáp ứng được những mục đích tốt đẹp


Nhờ tham gia vào sinh hoạt nhóm và các lớp giáo lý các bạn trẻ có được định hướng cho đời sống đạo khi phải xa cách sự hướng dẫn và giáo dục của cha mẹ, thầy cô và cha xứ.


Các bạn học được những kiến thức giáo lý căn bản cho đời sống đức tin và luân lý, để có thể vừa lao động kiếm sống vừa duy trì đời sống đạo. Các bài học về nhân bản, về tình bạn giúp các bạn trưởng thành các chiều kích xã hội. Bạn Lan, một học viên lớp giáo lý Kinh Thánh, có lần chia sẽ: “Em cảm thấy khôn hơn nhiều, khi được sinh hoạt và học tập với các bạn, vì trước đây em làm việc nhà, suốt ngày chẳng gặp ai, chẳng nói chuyện với ai cả nên “khờ” người lắm”.


Một điều tốt lành là nhờ tham gia sinh hoạt giáo lý, các bạn có thêm nhiều hiểu biết và tránh xa các tệ nạn xã hội vẫn luôn “bám sát” các bạn ở nơi làm việc hoặc và nơi ở trọ. Đồng thời các bạn cũng nuôi dưỡng được tính trung thực trong khi làm việc. Một bạn trai chia sẻ: “Từ ngày đi học giáo lý, coi như em tránh được “vụ” nhậu nhẹt với bạn bè, rất có lợi cho sức khỏe và khỏi bị “viêm màng túi”, nên lâu lâu có chút ít tiền gởi về cho em đi học” .


Tuy còn gặp nhiều khó khăn và trở ngại trong cuộc sống của một “công nhân nghèo” ở chốn đô thành, nhưng các bạn công nhân Vạn Thành- Tân Việt đã phần nào hoàn thành những mục tiêu cao đẹp mà các bạn tự đặt ra cho mình. Nhờ thế, các bạn đã thực hiện tốt vai trò người Kitô hữu sống tốt đời đẹp đạo, và trở thành “men”, “muối” trong chính môi trường sống của các bạn, nhưng các bạn vẫn canh cánh những thao thức về tương lai của nhóm.


4. Những thao thức hướng tới tương lai


Những cố gắng của các bạn đã làm cho các bậc phụ huynh, nhất cha quản xứ Antôn Trần Đình Văn ở quê hương và những người quan tâm đến các bạn yên tâm hơn. Họ là những người, cách nào đó, bị “buộc” vào tình thế phải chấp nhận sự ra đi của các bạn, vì điều kiện cuộc sống và kế sinh nhai của lớp trẻ. Giờ đây họ có thể nở nụ cười và an tâm hơn về đời sống đạo của con em họ nơi chốn thị thành. Vì thế, chính các công nhân trẻ cũng đã tạo cho các bậc phụ huynh và các chủ chăn nơi các bạn xuất thân nhiều kỳ vọng.


Thực vậy, khi sự cố gắng âm thầm của các bạn đã bắt đầu có những hoa quả đầu tiên, thì cũng là lúc mọi người bắt đầu biết đến các bạn. Năm 2006, Đức Giám Mục giáo phận Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, trong một lần đi công tác, đã ghé thăm lớp học của các bạn. Ngài rất hài lòng với những con chiên nhỏ phải sống xa đàn này, và ngài đã có những lời tuyên dương các bạn nơi những giáo xứ mà ngài có dịp ghé tới. Đây là điều làm cho các bạn vừa mừng vừa lo. Mừng là có nhiều người biết đến mình, lo là sợ không đáp ứng được những kỳ vọng của mọi người.


Bên cạnh đó, các bạn công nhân trẻ cũng thao thức làm sao duy trì và phát triển Nhóm, nhằm giúp nhau sống đạo giữa môi trường đô thị đầy cạm bẫy. Với mục tiêu đó, các bạn vừa có thể lao động kiếm sống bằng những công việc lương thiện, vừa có thể thực hành đời sống của một người Kitô hữu ở tại quê hương thứ hai này.


Để khép lại việc chia sẻ dài dòng về một nhóm công nhân nhập cư trẻ, tôi nhớ có người đã ví Giáo Hội Chúa như một công trường rộng lớn, mỗi người có một việc để góp sức mình vào việc hoàn thành ngôi nhà Giáo Hội. Theo cách hiểu này, các bạn công nhân trẻ Vạn Thành - Tân Việt đã và đang dấn thân, vào công việc xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô bằng chính đời sống chứng tá âm thầm của họ, trong chính môi trường sống, học tập và lao động rất khiêm tốn của họ. Mong rằng các bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ của nhiều người để có thể thực hiện được các thao thức của Nhóm.

Quang Huyền

Mục lục

 

 

LỄ MỪNG KÍNH CÁC THÁNH DÒNG ĐAMINH BỔN MẠNG LIÊN HUYNH HẠT HỐ NAI - GP. XUÂN LỘC


HỐ NAI - Sáng thứ Sáu mùng 07/11/2008, tại nhà thờ giáo xứ Bắc Hải, Hạt Hố Nai, GP. Xuân Lộc, Liên Huynh Giáo Hạt Hố Nai đã tổ chức Lễ Mừng Kính Các Thánh Dòng Đaminh, Chủ sự Lễ là Cha Phanxico xavie Trần Quang Thảnh đặc trách Huynh Đoàn Giáo Phận Xuân Lộc, đến dự lễ có Cha cố Giuse Phạm Ngọc Hoan nguyên linh hướng Liên Huynh Hố Nai, Qúy Cha, Qúy Soeur bề trên, Qúy Tu Sỹ nam nữ, Qúy Ban hành giáo Hạt, Qúy đoàn hội các giới, Qúy Ban Thường Vụ huynh đoàn giáo phận, Qúy đại diện 13 Liên Huynh trong giáo phận, Qúy Ban Phục vụ 16 Huynh Đoàn, Qúy thân nhân, ân nhân và Qúy khách.


Bước vào Thánh lễ, Cha chủ sự ngỏ lời chào Qúy Cha, Qúy Tu sỹ nam nữ, anh chị em Huynh đoàn và quý khách, Ngài nói: Hôm nay Dòng Đaminh trên toàn thế giới, đặc biệt Liên Huynh Hố Nai chúng ta hân hoan mừng kính các Thánh Dòng Đaminh, các Thánh Dòng là những người đã sống ơn gọi Đaminh, đã được hy vọng từ Đaminh, và đã thi hành tốt nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao ban cho mỗi người trong môi trường, hoàn cảnh sống của mình, các Ngài đã nên Thánh và được Chúa, được Thánh Đaminh kêu gọi. Chúng ta cùng hiệp dâng Thánh lễ tạ ơn Chúa, vì trong suốt một năm qua, chúng ta đã nhận được biết bao nhiêu hồng ân của Chúa qua lời khẩn cầu của các Thánh Dòng là những người đã đi trước chúng ta, chúng ta hy vọng rằng, sau này chúng ta cũng được hưởng phúc cùng các Thánh trên trời, khi chúng ta thực thi tốt nhiệm vụ ơn gọi làm con Chúa. Đặc biệt hôm nay ! chúng ta cũng cầu nguyện cho các Cha linh hướng, các vị hữu trách, các ân nhân, thân nhân của huynh đoàn, những người đã giúp đỡ chúng ta cách này cách khác, để chúng ta thực hiện tốt ơn gọi làm tông đồ mà Chúa đã trao phó cho mỗi người chúng ta ….


Ông Đaminh Đỗ Đình Từ, Trưởng ban Liên Huynh Hạt Hố Nai cho biết: Hiện nay trong Liên Huynh Hạt có 2500 đoàn viên, ngoài sinh hoạt tôn chỉ mục đích của Dòng, các Huynh đoàn đã làm tốt công việc bác ái, thăm viếng tặng quà, giúp đỡ những người già yếu, bệnh tật, cô đơn, cộng tác đóng góp tích cực vào các công việc truyền giáo của Giáo Xứ Giáo Hạt và Giáo Phận …


Sau lễ, là bữa tiệc mặn và liên hoan văn nghệ do các đoàn viên phụ trách, đáng nhớ là các đoàn viên lớn tuổi, họ đã diễn những hoạt cảnh dựa theo kinh thánh rất hay, những lời độc thoại của vai diễn rất cụ thể như: Lạy Chúa ! chúng Con cảm tạ Chúa, Chúa luôn đồng hành cùng chúng con, trên mỗi bước đường chúng con đi, những buổi chiều tà truân chuyên gió bụi, hoặc ba đào bão tố trong đêm tối mịt mù, Chúa đã luôn hộ phù chở che ban cho chúng con niềm tin và sức mạnh để lướt thắng hiểm nghèo. Những khi chúng con chìm sâu trong khổ đau tuyệt vọng, Chúa đã lau khô giòng lệ héo hắt. Lạy Chúa ! cuộc lữ hành của chúng con còn nhiều gian nan, thử thách, chúng con biết rằng, với thân phận yếu đuối mỏng giòn mang nhiều hệ lụy, nếu không có Chúa, thì làm sao chúng con có thể đi trọn trên con đường đầy bão táp phong ba này.

Vâng ! chính Chúa đã đến, để mang lại nguồn sống và sức mạnh cùng niềm cậy trông cho chúng con, và vì thế, chúng con chỉ biết cảm ơn và ngợi khen Chúa đến muôn đời Amen.

 

Giuse Khổng Hữu Nguồn

Mục lục

 

 

Thánh lễ cầu nguyện cho các giám mục, linh mục và giáo dân đã qua đời của TGP Saigòn

 

SAIGON - Sáng ngày 05/11/2008, tôi lại đến nhà thờ Chí hòa, Sài Gòn để tham dự thánh lễ cầu cho các giám mục, linh mục, và tông đồ giáo dân đã qua đời do Đức hồng y Gioan Baotixita chủ sự, và viếng nghĩa trang linh mục giáo phận Sài Gòn.


 Vẫn như một lời hò hẹn, vẫn như nhịp đập của trái tim; quí cha từ các nơi đổ về khá đông làm nên một đoàn rước thật đẹp, hay nói đúng hơn là làm cho lời cầu nguyện thêm đậm đà cái tình cái nghĩa của người đang thi hành sứ vụ dành cho các vị mục tử đã hoàn tất sứ vụ nơi trần gian.


Nhìn đoàn đồng tế tiến vào bên trong thánh đường, tôi đã hình dung được diễn tiến thánh lễ, tuy không khác gì so với mọi năm nhưng chắc chắn của lễ dâng tiến hôm nay vẫn luôn mới mẻ bởi tâm tình của Đức hồng y GB. Phạm Minh Mẫn, quí cha đại diện, quí cha và đông đảo giáo dân luôn trôi theo dòng thời gian, song song với hành trình của niềm tin, một niềm tin của người Kitô hữu được vun đắp mỗi ngày.


Thoáng nhìn một màu tím u buồn trong lòng nhà thờ, tôi thấy dâng trào một cảm xúc man mác buồn, nhưng nỗi buồn ấy bỗng nhẹ tênh, làm cho một niềm hy vọng tràn đến, vì “hồn thiêng” của thánh lễ được hòa hợp với sự sốt sắng của nhiều người và ý nghĩa bài giảng của Đức hồng y hôm nay.


Với giọng trầm buồn, Ngài chia sẻ rằng, sự sống có lúc cần phải như hạt lúa bị thối đi, bị chết đi. Tại sao lại phải như vậy trong khi sự sống cần được tôn trọng và bảo vệ? Lời Chúa cho chúng ta thấy cần phải chú tâm hủy hoại sự sống của mình (hủy hoại ở đây mang ý nghĩa là phải hy sinh, chịu hao mòn, phải cạn kiệt con người riêng của mình vì lợi ích chung).


Đức hồng y còn dùng hình ảnh vùng đất mũi Cà Mau để so sánh với hình ảnh Giáo phận. Đó là một mảnh đất, qua nhiều thời kỳ, được phù sa nối tiếp bù đắp, hình thành nên một cánh đồng màu mỡ của vùng Cà Mau. Cuộc đời tận tụy hy sinh phục vụ của các mục tử đã qua đi để tạo nên một cánh đồng giáo phận màu mỡ hôm nay.


Dầu là một cánh đồng màu mỡ thì vẫn có sâu rầy, dịch bệnh phá hoại lúa khoai mùa màng, nghĩa là trên mảnh đất đó, vẫn còn những tệ nạn của cách sống phóng đãng, thác loạn, lừa đảo, gian dâm, ma túy… Chúng ta phải chú ý để mảnh đất của giáo phận bớt đi những tệ nạn đó mà thu lượm được hoa quả tốt lành.

Ghi nhớ công ơn của các vị giám mục, linh mục đi trước, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn Kitô hữu phải trở nên thành trì vững chắc trên cánh đồng phì nhiêu này.


Sau thánh lễ, các linh mục trong trang phục đời thường đã hòa vào dòng người đông đảo đi viếng nghĩa trang linh mục của giáo phận Sài Gòn. Đức hồng y ghé thăm mộ đức cha Trần Thanh Khâm, ngôi mộ ở gần cổng, khói nhang nghi ngút, hoa nến tươi màu. Dưới cái nhìn của tôi, có lẽ đây là vị giám mục phụ tá âm thầm nhất giáo phận.


Mọi người đứng trước bàn thờ ở nghĩa trang, đọc kinh và hát như bao năm qua vẫn làm, đưa mắt nhìn những người chung quanh, tôi tự hào: những người giáo dân bình thường như thế này mà lại trở nên thành trì bảo vệ các thành quả của các vị giám mục và linh mục sao, thật tuyệt vời!


Tôi trộm nghĩ (nếu có sai xót xin thứ lỗi) về đời linh mục như cây trồng. Giáo Hội chọn lựa giống cây, dày công vun xới cách khôn ngoan cho cây tươi tốt. Cây đúng độ thì sinh hoa kết trái. Hoa trái thơm ngon qui tụ được nhiều người, lúc ấy quanh cây đầy rẫy những lời khen tặng, những tiếng cười, những sẻ chia. Khi hoa trái đã qua những mùa thơm ngọt, cây dần khô cằn theo năm tháng, chỉ còn chút bóng mát cho đời là lời cầu nguyện thầm lặng. Có mấy ai còn đến vui cười dưới bóng mát ấy là quí lắm rồi. Khi cây trở về bụi đất, lời cầu nguyện chung bỗng trở thành một khúc vui, thân thiện, giữa giáo hội lữ hành và giáo hội khải hoàn.


Lời cầu nguyện trong thánh lễ và cuộc thăm viếng hôm nay như một giai điệu đẹp đi vào cõi vĩnh hằng hòa chung lời ca với các mục tử mà ca tụng một Thiên Chúa là đấng làm chủ sự sống và cái chết.

 

Maria Vũ Loan

Mục lục

 

 

Dư vị bầu cử

Liên danh phò phá thai Obama-Biden đã thắng “vẻ vang” cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ năm 2008. Cả Đức Giáo Hoàng và Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh đã gửi điện chúc mừng người thắng cử, đúng theo lề lối và phong thái ngoại giao. Đức Hồng Y George, chủ tịch hội đồng giám mục Mỹ cũng đã gửi điện văn chúng mừng, nhưng đã nhắc nhở tổng thống đắc cử trách nhiệm “bảo vệ những người dễ bị thương tổn nhất”, dù trong bài diễn văn đắc cử, Obama hứa với những người không đồng quan điểm với ông rằng: “tôi cũng là tổng thống của các bạn nữa”. Không hiểu điều ấy có hàm nghĩa ông ta sẽ ngưng không ký ban hành đạo luật Freedom of Choice Act như đã long trọng hứa hẹn năm 2007 hay không?

Phá thai

Hình như không. Và đó là lý do khiến các vị giám mục Hoa Kỳ lo âu. Trong đó, có Đức cha Donald Wuerl, Tổng giám mục của thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Ngày 5 tháng Mười Một, một ngày sau khi Obama đánh bại TNS McCain của Arizona, ngài đã gửi cho giáo dân một thông điệp, cho hay cùng với toàn dân, ngài vui mừng về biến cố lịch sử này. Tuy nhiên, ngài cầu xin cho các nhà tân lãnh đạo “được hướng dẫn để đưa ra các quyết định khôn ngoan và biết cảm thương”. Nhắc lại nỗi âu lo của hơn 50 vị giám mục các giáo phận Hoa Kỳ về việc bảo vệ sự sống của trẻ chưa sinh, Đức cha Wuerl nhấn mạnh rằng ngài hy vọng thấy tân chính phủ “tôn trọng và cam kết sâu xa đối với tính thánh thiêng và phẩm giá của mọi sự sống nhân bản và nâng đỡ những người dễ bị thương tổn nhất trong chúng ta”.

Phát biểu trên đài Phát Thánh Vatican, Đức cha William Murphy, giám mục giáo phận Rockville Centre, New York, cũng đã bình luận về ngày bầu cử tại Mỹ và gọi ngày ấy là “giây phút lịch sử” của Hoa Kỳ. Đối với ngài, Obama là một “người thông minh” có khả năng “dùng viễn kiến của mình mà đánh động cả một nhóm người… Xét về nhiều phương diện, đất nước này đã mỏi mệt và muốn có một giọng nói mới mẻ”. Ngài nghĩ Obama đáp ứng được ý muốn đó. Nhưng ngài nhấn mạnh vấn đề phá thai là “thách đố lớn” đối với vị tổng thống này, người mà ngài nói “không phải là phò lựa chọn mà là phò phá thai’. Đức cha lưu ý mọi người nhớ đến “nỗi kinh hoàng của 40 đến 50 triệu trẻ thơ bị phá thai” và cho hay đất nước này đã “một cách có hệ thống, loại bỏ không cho cả một bộ phận công dân được chia sẻ quyền sống”. Ngài nói: “Đây là một vết nhơ hết sức đen tối đánh dấu lên đất nước Hoa Kỳ. Và vết nhơ này đi ngược hẳn lại bản sắc của chúng ta, một dân tộc vốn chủ trương rằng mọi người đều được hưởng tự do, công bình và mưu cầu hạnh phúc…Không cho trẻ chưa sinh quyền được sống, là chúng ta không sống đúng bản sắc mình. Đối với Obama, Đức cha Murphy cho hay hồ sơ chống sự sống của ông “hết sức rõ rệt” và “các đức giám mục sẽ thúc giục ông phải suy nghĩ lại việc ấy. Chúng tôi sẽ thúc giục ông đừng châm lửa cho những chia rẽ văn hóa khác nữa và gây chia rẽ đất nước ta hơn nữa về vấn đề quan trọng hàng đầu này”. Ngài nói rằng các giám mục sẽ “thúc giục ông suy nghĩ lại các quan điểm trên và cố gắng suy gẫm cảm nhận phổ quát hiện nay rằng phá thai theo yêu cầu tự nó không phải là điều tốt, vì nó giết hại trẻ em, nó không phải là điều tốt cho đất nước chúng ta vì nó phạm tới cốt lõi một xã hội thiện hảo”

Các giám mục vùng San Antonio thì kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho văn hóa sự sống. Trong một sứ điệp phổ biến trên trang mạng của giáo phận, Đức tổng giám mục Archbishop José H. Gomez và Đức cha phụ tá Oscar Cantú nhìn nhận con số kỷ lục các cử tri đi bầu lần này để bầu vị tổng thống Da Đen đầu tiên cho nước Mỹ. Các ngài viết: “Ta hãy cầu xin Chúa ban cho ông sự khôn ngoan và lòng cảm thương để lên khuôn được một nền văn hóa sự sống tại đất nước này và để ông quay về với các chính sách bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta”.

Hôn nhân đồng tính

Trong cuộc bầu cử lần này, một số tiểu bang cũng cho trưng cầu dân ý một số tu chính án quan trọng. Trong đó, tiểu bang California trưng cầu dân ý về “Đề Án Số 8” nhằm sửa lại Hiến Pháp Tiểu Bang để cho vào câu định nghĩa hôn nhân là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Kết quả đa số cử tri đã đồng ý thông qua Đề Án này. Ngày 5 tháng Mười Một vừa qua, Đức Hồng Y Roger Mahony, Tổng giám mục Los Angeles đã gửi cho giáo dân một bản tuyên bố cho rằng việc Tiểu Bang California ngăn cấm hôn nhân đồng tính là kết quả của một “liên minh vô tiền khoáng hậu gồm nhiều cộng đồng đức tin và công dân khác, đã hiểu ra tầm quan trọng của việc duy trì định chế hôn nhân nền tảng”. Trích dẫn chương trình Thiên Chúa dành cho gia đình nhân bản trong Sách Sáng Thế, Đức Hồng Y nói thêm: “Các cố gắng tập thể của chúng ta trong việc ủng hộ Đề Án Số 8 đã tập trung quanh việc bảo tồn kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch cho rằng hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà phải là thực tại bất biến qua đó tình yêu hỗ tương của họ sẽ mang hoa trái bằng việc cho ra đời những đứa con để tiếp diễn gia đình nhân loại. Việc dưỡng nuôi, đào luyện và giáo dục con cái đã được Thiên Chúa định liệu xẩy ra trong khung cảnh gia đình truyền thống gồm một người cha và một người mẹ”. Ngài cho rằng Đề Án Số 8 là một cuộc đầu phiếu tích cực. Cuộc đầu phiếu này không nhằm kình chống bất cứ nhóm xã hội nào khác, mà chỉ tìm cách bảo tồn kế hoạch của Thiên Chúa cho “mọi người sống trên trái đất này”. Ngài khuyên mọi người củng cố định nghĩa mới này của hiến pháp bằng cách tiếp tục hỗ trợ hôn nhân và gia đình.

Hội Nghị Công Giáo Arizona cũng ra một bản tuyên bố gửi cử tri “thuộc mọi niềm tin và lối sống” đã cùng nhau tham gia vào việc chấp thuận Đề Nghị Số 102 cũng nhằm đưa định nghĩa về hôn nhân vào hiến pháp tiểu bang. Bản tuyên bố này viết: “Chúng tôi đặc biệt biết ơn khi thấy người Công Giáo đáp ứng nồng nhiệt đối với các cố gắng của các vị giám mục nhằm thông qua biện pháp này”. Việc ngăn cấm hôn nhân đồng tính tại tiểu bang này hết sức có ý nghĩa vì năm 2006, dân Arizona là những người duy nhất bác bỏ tu chính án về hôn nhân. Cuộc đầu phiếu hôm thứ Ba vừa qua đã lật lại việc bác bỏ kia, làm con số các tiểu bang chịu cho điều khoản bảo vệ hôn nhân vào hiến pháp tăng lên 30.

Tiểu bang Florida cũng chấp thuận một tu chính án nhằm ngăn cấm hôn nhân đồng tính. Cuộc đầu phiếu này cũng hết sức ý nghĩa vì nó đòi phải có đa số 60% thuận, thực tế nó chiếm được 62% tổng số phiếu. Kết quả của California cũng đáng kể vì từ tháng Năm, đã có tới 18,000 cuộc hôn nhân đồng tính được cử hành tại đây. Tu chính án được chấp thuận với 52% tổng số phiếu này sẽ hủy bỏ án lệnh của Tối Cao Pháp Viện hợp pháp hóa hôn nhân đồng tình trước đây. Ngân khoản dành cho các chiến dịch ủng hộ và đả phá tu chính án này được coi là kỷ lục đối với bất cứ vấn đề xã hội nào tại Mỹ, lên đến 73 triệu dollars thu được từ các tiểu bang và cả nước ngoài nữa.

Trong khi đó, tiểu bang Arkansas cũng đã bỏ phiếu ngăn cấm các vợ chồng không cheo cưới được nhận con nuôi. Trái lại, các cử tri tiểu bang Hoa Thịnh Đốn lại bỏ phiếu ủng hộ việc trợ tự tử, bắt chước theo đạo luật “Chết Hợp Nhân Phẩm” của tiểu bang Oregon. Tu chính án này cho phép người mắc bệnh đến thời kỳ cuối cùng được phép dùng thuốc giết người để tự chấm dứt sự sống của mình. Và tại Dakota Nam, cuộc trưng cầu chống phá thai chỉ thu được 45% số phiếu không đủ để thông qua. Sau khi thua năm 2006, lúc ấy đề nghị cấm hoàn toàn, đề nghị lần này cho phép phá thai trong trường hợp bị hiếp dâm, loạn luân hay sức khoẻ của người mẹ bị đe doạ đến tính mạng. Các người phò sự sống khá thất vọng vì mặc dù có thay đổi như thế mà tu chính án vẫn không được thông qua.

Vũ Văn An

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

Nhà thờ hay Thánh đường

Nói đến chuyện xây Nhà Thờ dường như Kitô hữu cách riêng khá nhạy cảm về nhiều mặt và với nhiều đối tượng. Đó đây qua mạng lưới thông tin người ta được biết không ít chuyện tốt, chuyện tích cực lẫn chuyện tiêu cực, chuyện không hay liên quan đến việc xây dựng Nhà Thờ. Người ta phấn khởi vui mừng vì những nơi quê nghèo, xa xôi, vùng dân tộc thiểu số có được một cái nhà hay ít là một cái “gì đó” gọi là nhà để làm nơi thờ phượng, nơi sinh hoạt tôn giáo chung. Người ta cũng có thể thấy khó chịu khi chứng kiến các ngôi Nhà Thờ uy nghi lộng lẫy sừng sững giữa trời xanh, bên cạnh biết bao căn nhà thấp bé, liêu xiêu của đám đông dân chúng. Chưa kể đến chuyện xứ xứ tranh đua phá nhà thờ cũ để xây nhà thờ mới cho hoành tráng hơn xứ người. Ngoài ra còn phải kể đến chuyện “có xây thì có cất”, chuyện vốn bình thường ngoài xã hội đang lây nhiễm vào Hội Thánh nơi này nơi kia, dù có thể chỉ là thiểu số nhỏ nhoi.

Nhân ngày Lễ Cung hiến Thánh Đường Latêranô, xin được lướt qua những chuyện đã quen ở trên để cùng tự hỏi với nhau rằng ta nên “xây nhà Thờ” hay nên “xây Thánh Đường”. Sẽ có người lẩm bẩm rằng quả là chuyện lẩn thẩn. Chỉ khác nhau về ngũ từ chứ có gì mà phải ầm ỉ. Tuy nhiên, vẫn có thể có nhiều cái nhìn mới lạ, có nhiều tư tưởng được gợi lên từ những tiểu dị.

Xây Nhà Thờ - Đền Thờ:

Dưới nhãn quan Kitô giáo thì đó là xây dựng một cái nhà, dù lớn hay bé, hoành tráng hay đơn sơ để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa cách công khai và chính thức. Tuy nhiên bài Tin Mừng hôm nay cho ta hay rằng cái Nhà Thờ vật chất ấy có thể biến thành “nơi buôn bán” hay là “hang trộm cướp” do bởi tấm lòng vụ lợi của tín hữu và cũng có thể của các Đấng bậc Tư tế, cách này, kiểu kia. Đến Nhà Thờ mà chỉ mong được cái này, được điều kia cho bản thân cho gia đình mà thôi thì chưa phải là sống đức thờ phượng. Đức thờ phượng mà ta phải có đối với Thiên Chúa là nhìn nhận mọi sự ta có, ta là, đều do bởi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự nhìn nhận này được biểu hiện rõ nét bằng việc tạ ơn và sẵn sàng dâng lại cho Thiên Chúa những gì mình đang là, đang có.

Hình thức dâng phần trăm hoa lợi là một trong những cách thế biểu lộ tâm tình tạ ơn và hiến dâng này. Thử hỏi mỗi lần đến Nhà Thờ, đặc biệt trong Thánh Lễ Chúa Nhật, chúng ta đã chuẩn bị cái gì để dâng lên Thiên Chúa ? Nếu chỉ biết tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật để chu toàn luật Hội Thánh buộc hoặc chỉ biết đến để cầu xin điều này, điều nọ thì vô tình ta sẽ biến Nhà Thờ thành nơi để ta vụ lợi, cho dù là những mối lợi rất thiêng thánh, nhưng ta đang thiếu tâm tình phượng thờ.

Nếu hiểu tâm hồn ta, thân xác ta, cả con người ta là đền thờ thì quả là hợp Thánh Kinh. Theo Lời các Thánh Tông đồ, Hội Thánh không ngừng mời gọi ta chuyên chăm xây dựng cái đền thờ thiêng liêng này cho xứng hợp là nơi Chúa ngự. Tuy nhiên, vì là thiêng liêng thì khó kiểm chứng. Ngay cả bản thân ta, có mấy ai đoan chắc rằng, ngôi đền thờ thiêng liêng nơi ta đang là nơi thờ phượng Thiên Chúa ? Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng trí của ngươi ở đó. Thử làm bản thống kê thì lòng trí của chúng ta hướng về điều gì nhất ? Không dám xét về thời gian, chỉ xét về mức độ mà thôi thì quả là khó trả lời cho câu hỏi trên. Để làm cho đền thờ thiêng liêng nên xứng hợp thì không gì hơn theo lời Đức Kitô: “ Hãy phá đền thờ này đi...”. Phá đi cái rào cản của sự ích kỷ hẹp hòi. Phá đi cái bức tường tự kiêu, tự mãn cục bộ. Phá đi những bức tường của sự vô tâm, vô tình... Nếu không phá những sự tiêu cực ấy thì khó lòng xây dựng đền thờ thiêng liêng chính hiệu.

Xây Thánh Đường:

Làm một căn nhà hay xây một tấm lòng dành riêng cho Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa ngữ này thì quả là vừa tốt đẹp vừa vẹn nghĩa. Với dấu nào ta có thể nhận biết cái gì đó đang thuộc về Thiên Chúa, đang dành riêng cho Thiên Chúa ?

Cám ơn Thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta biết “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,16). Và “tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10).

Bất cứ căn nhà nào trở thành nơi để con người sống yêu thương liên đới với nhau cách tích cưc và tự nguyện thì đó là Thánh Đường, là nơi thuộc về Thiên Chúa, dành cho Thiên Chúa. Cũng thế, khi tâm hồn ta biết thao thức với hạnh phúc của tha nhân, khi con người và mọi tài năng của ta được sử dụng vì sự sống còn, sự thăng tiến của tha nhân thì cả con người ta đang là đền thánh. “ Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1Ga 4,7).

Ngoài ân sủng thiêng liêng thì mong sao các đấng bậc tư tế biết thao thức trao dâng cho tín hữu món ăn Lời Chúa cách hữu ích và ngon miệng. Và dĩ nhiên đoàn tín hữu cũng phải có chúng bị cái gì đó để trao cho nhau và hiến dâng cho Thiên Chúa. Chắc chắn khi ấy tâm hồn chúng ta và cái nơi chúng ta đang tụ họp không thể nào là hang trộm cướp hay nơi buôn bán vốn là nơi phục vụ cho sự vị kỷ và vụ lợi, mà trái lại đó là thánh đường chính danh, chính hiệu.

Lm Giuse Nguyễn văn Nghĩa

TỈNH THỨC

 

Qua dụ ngôn mười trinh nữ cằm đèn ra đón chú rể, trong đó có năm cô dại và năm cô khôn, Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học “tỉnh thức” để luôn nhận ra và nếm cảm niềm vui Nước Trời là chính sự hiện diện của Thiên Chúa đã được hứa ban cho những người tin.

 

Theo bản văn, Đức Giêsu không muốn chúng ta hiểu tỉnh thức là không ngủ để canh thức chờ Người đến vì tất cả mười cô trinh nữ đều ngủ :“vì chàng rể đến chậm nên tất cả các cô thiếp đi, và ngủ cả” ( Mt 25, 5);  điểm khác biệt là năm cô khôn mang dầu theo với đèn còn năm cô khờ thì không mang dầu theo.

 

Như vậy, qua lời mời gọi tỉnh thức, Đức Giêsu muốn chúng ta tin vào Người thể hiện qua một đời sống cầu nguyện để ngọn đèn đức tin của chúng ta luôn cháy sáng như sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy : “ Người tín hữu phải tin, cử hành và sống mầu nhiệm đức tin trong tương quan sống động và thân tình với Thiên Chúa hằng sống và chân thật.Cầu nguyện giúp người tín hữu sống tương quan này.”(SGLHTCG 2558).

 

Như vậy, tỉnh thức là sống trong sự ­thật điều mình tin, xác tín Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, và mình là con Thiên Chúa. Chính sự thật này sẽ là động lực thúc đẩy chúng ta hoán cải không ngừng để trở về với mối tương quan yêu thương mà Thiên Chúa đã đi bước trước thiếp lập giao ước với chúng ta (x.SGLHTCG 2567) ; đồng thời từ bỏ những gì làm chúng ta quên Thiên Chúa và quên mình là con  Thiên Chúa. Một cách cụ thể, Đức Hồng  y Martini Sj đã viết 4 khía cạnh làm thành kinh  nguện Kitô giáo : gặp gỡ, giải phóng, biến đổi và nhập cuộc. Và 4 khía cạnh này luôn liên kết với nhau vì một khi trong kinh nghuyện hằng ngày, chúng ta thực sự gặp gỡ Chúa, chúng ta sẽ được giải phóng khỏi lợi nhuận, quyền lực, hưởng thụ. Nhờ đó, chùng ta sẽ được biến đổi mỗi ngày nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu hơn và quảng đại hơn để bước theo sứ mạng của Người.

 

Đặc biệt về khía cạnh “nhập cuộc” SGLHTCG gọi là “cầu nguyện bằng hành động”(SGLHTCG 2570) giúp chúng ta có thể cầu nguyện liên lỉ, làm nên “đời sống cầu nguyện” của người Kitô hữu. Đó là gương cầu nguyện của Abraham, Môsệ, Đức Maria và các thánh khi các ngài tin vào Chúa, vâng lời Chúa, nhận lãnh sứ mạng Chúa trao : yêu thương phục vụ anh  em dân tộc của mình vượt qua mọi khó  khăn  thách đố và gian khổ. Đối với các ngài, cầu nguyện như  một cuộc chiến đức tin và chiến thắng dành cho những người tin.

 

Đến đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn sứ điệp của Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: tỉnh thức là tin, tỉnh thức là cầu nguyện, tỉnh thức là sám hối, và tỉnh thức là sống yêu thương. Với ý nghĩa trên đây, chúng ta có thể nói thay cho năm cô trinh nữ khôn ngoan rằng :’ dù mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình” (Thánh thi Kinh tôí). Vì cũng như các cô, chúng ta không thể liên lỉ tỉnh thức câùn guyện bằng lời, nhưng chúng ta vẫn có thể dùng cả cuộc đời để sống yêu thương, hy sinh phục vụ những người sống bên cạnh chúng ta, nhẫn nại giáo dục con cái chúng ta, và cảm thông tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Công việc này càng khó khăn bao nhiêu, chúng ta càng cần dựa vào Thiên Chúa bấy nhiêu và tìm đến nguồn mạch của kinh nguyện, nơi đó Đức Kitô đang chờ đợi để ban Thánh Thần cho chúng ta. Đó là : Lời Chúa, Phụng vụ, Hội Thánh, các nhân đức đối thần : tin, cậy, mến và mọi tình huống cụ thể “hôm nay” trong từng giây phút hiện tại của cuộc sống. (SGLHTCG 2652-2660)

 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hứa ai tỉnh thức trong cầu nguyện sẽ không sa chước cám dỗ (x Lc 22,40,46). Xin ban thêm đức tin cho chúng con, dạy chúng con  luôn biết cầu nguyện, sám hối và sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen

 

Nt. Têrêsa Phạm Thị Onh, OP

Mục lục

Lời vang vọng từ Thánh Đường

Xin chào mọi người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, các Bạn Trẻ, các em Thiếu Nhi, và tất cả những người không phải là tín hữu Chúa Giêsu Kitô đạo Công giáo đến thăm viếng tham quan tôi.

Tôi là Thánh Đường Công giáo được xây dựng bằng cát, đá, gạch, ximăng, cốt sắt, gỗ, kính mầu. Nhưng tôi cũng có thể kể thuật lại một vài tâm sự cho mọi người cùng nghe. Và cũng để mở rộng vòng tay thân hữu trong đức tin giữa con người với công trình xây cất của họ.

Như thế, có thể nói, tôi không phải chỉ là những cục gạch, mảnh gỗ đá vô hồn chồng chất lên nhau, nhưng là vật thể nhân chứng lịch sử thấm nhuộm tâm tính cùng lòng tin văn hóa của người tín hữu Chúa Giêsu Kitô.

Vâng, từ hàng nghìn năm, chính xác hơn, từ hơn hai nghìn năm nay, nơi nào đức tin đạo Công giáo được lan truyền tới, nơi đó Giáo Hội Công giáo, người tín hữu Công giáo đều xây dựng những ngôi Thánh Ðường thờ phượng kính mến Thiên Chúa.

1.Nhìn ngược lại lịch sử từ thời Giáo Hội Công giáo thuở ban đầu sau khi Chúa Giêsu về trời, vào thế kỷ thứ nhất sau Chúa giáng sinh, Thánh Ðường lúc đó là nơi tập họp của các tín hữu tại các tư gia cùng đọc kinh cầu nguyện bẻ bánh dâng lễ.

Sau khi đạo Công Giáo được lan truyền sâu rộng quảng bá trong dân gian, số giáo dân ngày càng đông, nên người ta nghĩ đến việc xây dựng những ngôi Thánh Ðường có diện tích rộng to hơn nhà dân chúng ở, tuy chỉ bằng vật liệu thô sơ thôi.

Và dần dần với thời gian, cùng với nền thần học Công giáo cao sâu hơn, óc sáng tạo văn hóa nghệ thuật, kỹ thuật xây cất phát triển cao, cộng chung với ý muốn cao vọng của những nhà lãnh đạo tinh thần trong Giáo Hội và cả thế quyền thời đó nữa, những ngôi Thánh Ðường có kích thước nhỏ, to, nguy nga đồ sộ theo kiến trúc kiểu Renaissance, Barock, Romantik, Gotik, được xây dựng từ những Giáo Hội Công giáo các nước bên Âu châu.

Như mọi người còn nhìn thấy những ngôi Thánh Ðường cổ kính ở nước Pháp, Ý, Đức, Áo, Bỉ, Balan, Tiệp, Thụy sĩ, Hylạp, Tây ban nha, Bồ đào nha, Thụy điển, Hòa Lan, Lục xâm Bảo từ thế kỷ thứ 9.10.11.12.13.14.15.16.17.18.19… Và từ những nước này những kiểu xây cất Thánh Ðường Công giáo cùng với làn sóng truyền giáo đã lan rộng hầu như khắp nơi trên thế giới.

Vì thế, hễ nói đến Thánh Ðường Công giáo, người ta nghĩ ngay đến những kiểu kiến trúc đó. Đó là nét đặc trưng của Thánh Ðường Công giáo. Ở những xứ nước Truyền giáo bên Á Châu, Phi Châu, Mỹ Châu…có những ngôi Thánh Ðường mới được xây cất theo kiến trúc Lịch sử hoặc Tân thời, hoặc theo nét văn hóa kiến trúc của đất nước sở tại.

Mỗi kiểu kiến trúc có nét riêng đặc thù của nó diễn tả chiều cao sâu của thần học, của văn hóa nghệ thuật, kỹ thuật thời đó, và cũng của cá nhân vị họa sư, kiến trúc sư nữa. Lẽ dĩ nhiên trước hết và sau hết vẫn là sự hy sinh công sức - Phải, đó là lòng tin, lòng mến và sự cậy trông của mọi người tín hữu Chúa Giêsu nơi vùng đó.

Có thể nói, Thánh Đường là ngôi nhà quê hương đức tin của người giáo dân Công giáo.

Hằng ngày người tín hữu Chúa Giêsu Kitô vào Thánh Đường hoặc âm thầm lâm râm đọc kinh khấn khứa, hoặc cùng nhau ca hát đọc kinh cầu nguyện to tiếng, cùng thắp sáng những ngọn điện, cây nến và trưng bày cắm bông hoa tươi thắm. Tất cả những điều đó mang đến cho Thánh Đường, ngôi nhà quê hương đức tin, sức sống động linh thiêng.

2. Vâng, tôi vui mừng đọc được tâm tình của người tín hữu phát tỏa ra từ ngọn nến nhỏ cháy sáng lung linh. Tâm tình đó vừa đạo đức vừa nhân bản của người thắp nó lên. Tôi đọc như thế này:

„Ánh lửa từ cây nến tỏa ra ánh sáng huyền diệu cùng pha lẫn mầu sắc thi vị. Nó gợi lên tâm tình hiếu thảo, cậy trông cùng ước vọng được yêu thương sưởi ấm và được soi sáng chỉ đường dẫn lối cho đời sống.

Cây nến được đốt thắp lên chiếu sáng sẽ dần dần tự hao mòn. Ngọn nến cháy càng lâu, chất sáp làm nên cây nến càng tàn lụi nhỏ bé đi. Và sau cùng tan chảy biến thành chất lỏng không còn giữ lại gì cho mình.

Hình ảnh này diễn tả sự hy sinh dấn thân của đời sống. Một đời sống cho đi trao tặng người khác, như sự hy sinh của cha mẹ cho con cái, vợ chồng cho nhau, hay những tấm lòng hảo tâm cho những người có cuộc sống bất hạnh kém may. Hay nữa cũng là hình ảnh của đời sống hy sinh tận hiến cho lý tưởng tu trì, dấn thân cho việc rao giảng Tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa ở trần gian, cho việc quảng đãi dấn thân làm việc tông đồ.

Ngọn nến khi được đốt thắp lên, nó thinh lặng tỏa ra luồng sáng nhỏ. Luồng sáng nhỏ này không làm chói mắt, khi nhìn thẳng vào nó.

Cũng vậy, đời sống của con người từ khi được tạo dựng thành hình trong cung lòng mẹ, ngày chào đời, lớn lên, học hành, lập gia đình sống đi vào đời, và sau cùng bước qua ngưỡng cửa sự chết đi vào lòng đất mẹ, có khác chi một ngọn nến bị đốt cháy tiêu mòn trong âm thầm lặng lẽ, nhưng chiếu tỏa ánh sáng sức sống ra xung quanh.

Bầu khí linh thiêng thánh đức tỏa ra từ ngọn nến đang cháy sáng và làn khói bốc tỏa ra, tựa như lời cầu kinh thóat ra từ tận đáy tâm hồn thành tín. Như thế ngọn nến cháy sáng khác nào như lời cầu kinh:

Vâng, con muốn cầu nguyện, tỏ bày tâm sự cùng Thiên Chúa . Nhưng con không biết phải cầu nguyện như thế nào. Nên con thắp ngọn nến này lên, xin Đức Mẹ, xin các Thánh chuyển tâm tình cùng lời khấn nguyện của con tới Thiên Chúa.

Và con cũng biết rằng, cây nến này không phải là sự hy sinh lớn lao gì, hầu như là hư không thôi. Nhưng cây nến được đốt thắp lên như dấu chỉ lòng con đang đứng yên lặng trước mặt Chúa.

Con thắp cây nến lên, vì con tin rằng , Chúa đang hiện diện nơi đây và nhìn thấu lòng con.
Con thắp cây nến lên, vì con tin rằng, Chúa hằng cùng đồng hành bên con, đang lắng nghe con bày tỏ tâm sự.

Con thắp cây nến lên, vì con tin rằng, Chúa hiểu biết hoàn cảnh gia đình con, lo âu của con, chương trình dự định tương lai của con, sức khoẻ của con, và những điều con trông đợi hy vọng ngày hôm qua, hôm nay cùng ngày mai.

Và khi con rời Thánh Đường trở về nhà, cây nến cháy sáng này là biểu hiệu lòng con hằng gắn bó với Chúa. Con tin Chúa là Cha của con và con cần Cha cho đời con. „

3. Chưa hết, tôi còn có cảm nghiệm khác nữa. Vào những ngày lễ trọng, trong Thánh Đường có hương khói thơm tỏa bay khắp cùng lòng nhà. Làn hương khói như sương mù bay quyện quấn vào những cây cột, tường vách, bàn ghế, trần mái nhà trong Thánh Đường. Tôi được hít thở tẩm ướp cùng thưởng thức mùi vị hương thơm đó. Tôi yêu mến hương thơm làn khói tỏa ra từ bình hương xông kính Thiên Chúa bốc lên cao.

Mỗi khi làn khói ở nhà bếp bốc lên cao, mọi người nhớ nghĩ đến bữa ăn thơm ngon, chan chứa tình yêu mến, mà người mẹ đang nấu sửa dọn cho gia đình.

Làn khói hương thơm trong Thánh Đưòng tỏa bốc bay lên cao tựa như lời cầu khấn của của toàn dân Chúa bay lên trời cao. Nó cũng là hình ảnh diễn tả lòng yêu mến của con người với Thiên Chúa.

4. Mỗi ngày vào buồi sáng, ban trưa, lúc chiều tà và vào những giờ Thánh lễ, tiếng chuông Thánh Đường đổ hồi báo tin kêu gọi mọi người tín hữu giờ cầu nguyện đọc kinh Truyền Tin, nào cùng đến Thánh đường ca hát đọc kinh dâng thánh lễ.

Những qủa chuông to nặng trầm bổng phát dội ra những âm thanh vang vọng khắp không gian, phát tỏa làn sóng làm rung chuyển cả vùng chung quanh. Những âm thanh đó dệt thành bài ca cung điệu hài hòa, mang vẻ đẹp văn hóa cao sang, giúp tâm hồn người nghe thức tỉnh. Và chúng cũng giúp họ như theo âm thanh tiếng chuông nâng lòng lên trời cao, nơi đó Đấng là nguồn sự sống cùng niềm vui cho đời sống con người đang ngự trị.

5. Tôi cũng thấy, trong Thánh Đường, ngoài những qủa chuông treo trên cây tháp được kéo đổ lên theo bài bản cung điệu, còn có dàn đàn phong cầm to nhỏ tùy theo không gian diện tích của thánh đường đó. Nó được trang trí bao bọc áo bằng gỗ qúi chạm trỗ điêu khắc rất vững chắc và công phu nghệ thuật.

Thánh Đường vang lên những cung điệu, vang dội khắp không gian thánh đường, mỗi khi những ống đàn phong cầm nhả phát tỏa ra những âm thanh dấu nốt, tiếng nhạc cụ réo rắt. Tôi thích thú thưởng thức, ghi nhớ mãi âm thanh tiếng nhạc bản đàn, và nhất là tiếng ca hát của ca đòan, của toàn dân Chúa cùng hát ca ngợi Thiên Chúa vang lên trong không gian Thánh Đường dội vào cây cột tường vách, trần nhà gỗ đá vươn lên tới thinh không trời cao. Và sau cùng chìm lắng xuống trong tâm hồn con người.

6. Một hình ảnh làm tôi cảm động nhất là mỗi khi vào Thánh đường mọi người tín hữu Công giáo đều lấy ngón tay chấm Nước Thánh nơi bình treo hai bên cạnh cửa ra vào, làm dấu Thánh gía “ Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần“ trên thân thể, với ý nghĩ nhắc nhớ lại làn nước Bí tích Rửa tội, mà ngày xưa lúc còn thơ bé đã lãnh nhận trong Thánh Đường.

Làn nước đức tin vào Thiên Chúa nguồn đời sống. Làn nước tình yêu cho tâm hồn đời sống.

7. Thánh Đường như đã nói, trở nên ngôi nhà quê hương đức tin của người tín hữu Chúa Giêsu. Nên còn gì vui mừng hơn, sầm uất sống động hơn, hằng ngày, hằng tuần, nhất là vào những dịp lễ lớn, như lễ Chúa Giáng sinh, lễ Chúa Phục sinh, lễ Hiện Xuống, dịp lễ Rửa tội, lễ Hôn phối, lễ Thêm sức, lễ kính Đức Mẹ Maria, lễ Các Thánh…có nhiều người giáo dân tuốn đến gần như chật ních Thánh Đường tham dự thánh lễ.

Đã đành vẻ sầm uất bên ngoài chưa hẳn đã diễn tả trung thực điều tin trong tâm hồn. Nhưng „trong lòng có đầy, mới tràn ra bên ngoài“. Cung cách hình thức sống đức tin tỏ lộ ra bên ngoài nâng đỡ gây niềm phần khởi cho đức tin trong tâm hồn nhiều lắm. Điều này đang thiếu vắng nơi các Thánh Đường bên Âu châu.

Tổng Thống Cộng hòa Liên bang Đức, H. Köhler, trong bài diễn văn ngày mừng lễ Thống nhất nước Đức hôm 03.10.2008 có kể lại mẩu chuyện đối thoại giữa Ông và những người tín hữu Tin Lành, thời nước Cộng sản Đông Đức năm 1980. Tận mắt Ông nhìn thấy họ ra công góp sức, bỏ tiền ra sửa chữa bảo trì ngôi Thánh Đường trong làng đang xuống cấp hư hỏng nặng, cho dù chẳng mấy khi họ đi đến nhà thờ. Ông hỏi họ:“ Tại sao các Ông Bà lại làm chuyện này?“.

Họ trả lời ngay: „ Chúng tôi không thể để Thánh Đường của chúng tôi sập đổ tan hoang được. Thánh Đường gắn liền thuộc về đời sống chúng tôi. Đó là quê hương, lịch sử chúng tôi.“

Và như thế, phải chăng đó không là con đường lịch sử đời sống giữa: Thiên Chúa và con người, trời và đất hằng cùng đồng hành có liên quan mật thiết với nhau sao?

Tôi còn nhiều tâm sự cùng cảm nghiệm muốn nói cùng mọi người. Nhưng tôi nghĩ, thôi đã dài dòng đủ rồi.

Xin chân thành cám ơn mọi người đã nghe tôi nói chuyện. Xin chúc mọi người sức khoẻ cùng niềm vui với ngôi nhà quê hương đức tin của mình: Thánh Đường.

Và xin chào mọi người!

Kỷ niệm ngày Thánh Đường được làm phép thánh hiến
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long phóng tác

Mục lục

 

Tài liệu Thường huấn Linh mục Giáo Phận Nha Trang, Năm Thánh Phaolô 2008

 

Bài 10 :

ĐỜI SỒNG THIÊNG LIÊNG, CÔNG TRÌNH CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI

Chỉ trong một đoạn thư ngắn như Gl 4,4-7, thánh Phaolô đã đưa chúng ta trở về nguồn mạch là Thiên Chúa Ba Ngôi để suy nghĩ về đời sống của chúng ta hôm nay.

                                                                  Lm. FX. Vũ Phan Long, ofm

 

 

1.- Chương trình của Chúa Cha

 

Đời sống thiêng liêng của chúng ta là một công trình của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Phaolô nói với chúng ta như thế qua đoạn văn Gl 4,4-7: 

4 Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, 5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em/chúng ta mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!" 7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.

           

Giờ đây chúng ta tìm hiểu từng điểm:

 

“Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật” (c. 4).

 

Đây là một khúc quanh quyết liệt trong  chương trình của Thiên Chúa: có một thời đại đang khép lại và một thời đại nới đang mở ra. Đặc điểm của thời đại cũ được diễn tả bằng tình trạng nô lệ với các từ ngữ: thiếu niên – nô lệ – dưới quyền những người giám hộ và quản lý (4,1-2a; 4,3), còn thời đại mới có đặc điểm là sự tự do, diễn tả bằng các từ ngữ: (trưởng thành) – con – người thừa kế – cha (4,4-7). Cái “trước” biến thành một cái “sau” nhờ hoạt động giải phóng được Chúa Cha điều hành trong sự hài hòa với Con của Ngài và Thần Khí của Con Ngài, xuyên qua hai cuộc sai phái, sai phái Con và sai phái Thần Khí (4,3; 4,6).

 

Thánh Phaolô long trọng công bố một chọn lựa của Thiên Chúa: Khi tới đỉnh cao thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai phái [1][1] Con của Ngài đến thế gian trong tình trạng hạ mình và trong các giới hạn: “sinh làm con một người đàn bà”, tức là Người đã trở thành người phải chết, giới hạn, như tất cả mọi người, như thế chia sẻ sự mỏng dòn của thân phận con người;  “sống dưới Lề Luật”, nghĩa là sống một cuộc sống được Lề Luật và các truyền thống quốc gia Do-thái qui định (x. Rm 8,3). Con Thiên Chúa đã “sinh làm con một người đàn bà và sống dưới Lề Luật” theo nhãn quan pháp lý của thư Galát (4,4), nhưng dưới nhãn quan cứu độ học của thư Rm, Người đã đến “mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta” (Rm 8,3), nghĩa là đã trở thành một thành viên của loài người hướng chiều về tội lỗi (“thân xác tội lỗi” = khuynh hướng đưa con người tới chỗ phạm tội) và Người đã trải nghiệm những hậu quả của tội lỗi, khi chịu chết (x. Gl 3,13). Đây là một nghịch lý vĩ đại: Thiên Chúa, là tự do tuyệt đối, đã sai Con mình vào trong một hoàn cảnh nô lệ cùng cực.

 

Thiên Chúa làm như thế để làm gì? Thánh Phaolô viết:

 

để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu [để] chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (c. 5).

 

“Để chuộc những ai sống dưới Lề Luật” là phương diện tiêu cực (x. 3,13); “để chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” là phương diện tích cực.

 

Như thế, Thiên Chúa đã chấp nhận nghịch lý của mầu nhiệm Nhập thể của Con mình, để thực hiện một công trình giải phóng. Bằng cái chết trên thập giá và trong tư cách con người, Đức Kitô đã thi hành bản án trên tọi lỗi, nghĩa là đã đẩy tội lỗi lâu nay vẫn thống trị trên xác thịt con người đến chỗ trở thành bất lực. Nhờ Đức Kitô, Chúa Cha đã giải phóng hoàn toàn (Gl 4,5; Rm 8,2) loài người khỏi mọi thứ nô lệ mà tội Ađam đã bung ra trong thế gian (Rm 5,12). Cuộc giải phóng này đã được thực hiện trọn vẹn trong ơn nghĩa tử (huiothesia) được ban cho những ai tin vào Người (Gl 4,5; Rm 8,1). Theo thư Gl, ơn nghĩa tử là được thông dự vào tư cách con của Con Thiên Chúa, do Người đã nhận lấy thân phận loài người chúng ta. Con Thiên Chúa đã sinh làm con một người phụ nữ để các người con phụ nữ có thể trở thành những nghĩa tử. Phương thức rõ ràng nhất của sự biến đổi lạ thường này hệ tại hành vi liên đới trong cái chết. Bởi vì Người đã chết và đã sống lại vì chúng ta, Đức Kitô đã đón tiếp tất cả chúng ta vào trong nhân tính mới của Người, trong thân xác đã được tôn vinh của Người; và trong Người là Con Thiên Chúa, chúng ta đã trở thành con Thiên Chúa (x. 3,26). Ơn nghĩa tử đưa lại cho chúng ta một danh hiệu như Đức Kitô; chính vì thế, chúng ta cũng trở thành “người thừa kế” (Gl 4,7; “đồng thừa kế”: Rm 8,17).

 

2.- Vai trò của Chúa Thánh Thần

 

Ở đỉnh cao của chương trình cứu độ tuyệt vời của Thiên Chúa Cha, thánh Phaolô cho thấy Thánh Thần đang hoạt động:

 

Để chứng thực anh em là con cái [rằng anh em là con cái], Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng chúng ta mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi !” (c. 6).

 

Đi từ “chúng ta” của c. 5 (= Do-thái và Dân ngoại), thánh Phaolô nói trực tiếp với người Galát ở c. 6 (anh em). Nhưng ngay sau đó, ngài lại trở về với “(lòng) chúng ta”: ngài muốn khẳng định rằng mọi ki-tô hữu (tôi = Phaolô, anh em = người Galát, họ = ki-tô hữu gốc Do-thái) đều đã nhận Thánh Thần này như là bảo chứng về ơn làm nghĩa tử. 

 

Điểm độc đáo của công thức mới này là Thiên Chúa gửi vào “trái tim chúng ta” một Đấng thường xuyên thuộc về Chúa Con. Nếu thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa đã đặt “Thần Khí của Ngài” vào lòng chúng ta, thì tương ứng với sấm ngôn Êdêkien (Ed 11,19; 36,26s; 39,29). Ngài cũng không nói là Con Thiên Chúa đã ban cho chúng ta “Thần Khí con cái”, vì điều này tuy mới nhưng cũng đơn giản. Ngược lại, ngài nói rằng Thiên Chúa đã sai “Thần Khí của Con mình” vào lòng chúng ta, điều này thật sự phức tạp, bởi vì ngài diễn tả một sự can thiệp của Thiên Chúa đồng thời cho thấy một tương quan của Thiên Chúa với Thần Khí và với Con, và ngài thiết lập một tương quan mật thiết giữa ba Đấng. Thánh Thần vẫn ở trong quan hệ với Thiên Chúa, Đấng sai phái Ngài, và với Chúa Con, mà Ngài thuộc về. Và chúng ta được đặt trong tương quan với Thánh Thần, với Chúa Con và với chính Thiên Chúa. Cách diễn tả này nhằm nêu bật quyền chúa tể của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ: chính Ngài sai phái Chúa Con và Thần Khí của Chúa Con. Tất cả chỉ nhắm làm cho chúng ta trở thành con cái.

 

Đây không phải là lần đầu tiên thánh Phaolô nói đến Thần Khí. Ngài đã nói đến Thần Khí ngay đầu chương 3 của thư Gl (x. 3,1-5), rồi nói đến một hành vi “tiêu cực” của Thần Khí: chiến đấu chống lại xác thịt, là sự yếu đuối của loài người. Sau đó, ngài cho thấy là có “Thần Khí của lời hứa” (3,14b), trực tiếp liên hệ đến “phúc lành ban cho Abraham” (c. 14a). Kế đó (3,15-29), xuất hiện ý tưởng “gia tài/thừa kế” (cc. 18a. 29 liên kết với ý tưởng “con cái Thiên Chúa trong Đức Kitô” (c. 26).

 

Khi áp dụng cũng động từ “sai phái” cho Con Thiên Chúa và cho Thần Khí, tác giả muốn nói rằng Thần Khí cũng có những đặc tính như Con Thiên Chúa, ngoại trừ là Con, và có một tương quan giữa việc sai phái Thần Khí và Chúa Con. Tương quan hình thức là giữa hai hành vi giống nhau của Thiên Chúa; nhưng còn có một tương quan sâu xa hơn, đó là ân ban Thần Khí đã có được là nhờ sự vâng phục mang sức cứu chuộc của Đức Kitô (x. Gl 3,13-14).

 

Được Thiên Chúa gửi vào lòng chúng ta, Thần Khí của Con Thiên Chúa diễn tả quan hệ con cái bằng cách liên tục kêu lên: Abba ho patêr, “Abba, Cha ơi!”. Nghĩa là Thần Khí làm chứng và đảm bảo cho sự tự do của các con cái Thiên Chúa.

 

Thật ra, từ Abba không chỉ dành cho đứa bé gọi cha, nhưng cho cả người lớn; đàng khác, gọi Thiên Chúa là “Cha” cũng không phải là chuyện lạ: các tôn giáo bán khai hay văn minh, của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít, đều gọi như thế. Điều lạ, đó là đây là một cách gọi riêng tư thân mật. Theo Mc 14,36, được hỗ trợ gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tên gọi thân mật Abba, và như thế cho thấy Người có một quan hệ mới và duy nhất, vô song, với Thiên Chúa (x. Mt 11,27//Lc 10,22; Ga 10,30). Cuộc sống của Đức Giêsu không có mục đích nào ngoài việc đưa loài người vào trong quan hệ con cái mà Ngài có với Thiên Chúa, bằng cách thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí con cái. Nhờ có Thần Khí của Con, nay người tín hữu có thể thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con: Abba!, tức cũng là đi vào trong quan hệ riêng tư thâm sâu giữa Đức Kitô và Chúa Cha.

 

3.- Kết quả

 

Bây giờ chúng ta đến kết luận của toàn phân đoạn Gl 3,1–4,7:

 

Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (c. 7).

 

Bản văn viết theo kiểu tăng dần: “nô lệ–con; con–thừa kế”, và tất cả kết quả là một sự kiện hiện đại: ngay ngày hôm nay….

 

Nếu đọc toàn phân đoạn, ta ghi nhận rằng Phaolô đã nêu bật vai trò của Thiên Chúa Ba Ngôi trong dự phóng biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa; nhưng luôn luôn là Thiên Chúa Cha ở tại nguồn của công trình này (Gl 3,5; 4,6).

 

Vậy, với Gl 4,1-7, chúng ta hiểu cuộc sống người tín hữu không phải là trò chơi của một định mệnh mù quáng, mà là công trình của Thiên Chúa Cha, của Đức Kitô và của Thần Khí. Đời sống ki-tô hữu là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa, đó là điều mà Thần Khí ở trong mỗi tín hữu liên tục làm chứng. Thư Gl gán cho Thần Khí một vai trò đặc biệt trong ơn nghĩa tử của người tín hữu, nghĩa là trong việc biến đổi con người thành con Thiên Chúa và trong việc bảo đảm cho tư cách này: nhờ trung gian  Thần Khí, người tín hữu trở nên và sống được mãi như là con Thiên Chúa, vì Thần Khí làm cho có ơn nghĩa tử cho riêng từng người và cho Giáo Hội, một ơn đã được ban một lần vĩnh viễn cho kẻ tin vào Đức Kitô. Ngoài ra, Thần Khí còn cho người tín hữu được cảm nghiệm cụ thể tư cách này (x. part. pres. krazon, “kêu lên”). Từ đó, người tín hữu là một con người hoàn toàn tự do. Tuy nhiên, chương trình cứu độ đến từ Thiên Chúa Cha; chính Ngài đã cử Con của Ngài đến, rồi đã thực hiện ơn cứu độ bằng cách ban Thần Khí của Đức Kitô. Đây là một lược đồ Ba Ngôi trong hoạt động cứu thế.

 

Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô nhắc lại kinh nghiệm Ba Ngôi này: “Chúng ta phải để cho Thần Khí khai mở nguồn nước hằng sống tuôn trào từ Đức Kitô cách vô cùng phong phú. Chính Thần Khí làm cho chúng ta nhìn nhận Đức Giêsu Nadarét là Đức Chúa (x. 1 Cr 12,3). Ngài cho chúng ta nghe được lời mời gọi đi theo Đức Kitô và kết hiệp chúng ta trong Người. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thể thuộc về Đức Kitô (x. Rm 8,9). Chính Thần Khí, khi biến chúng ta thành những người con trong Chúa Con, làm chứng về tình phụ tử của Thiên Chúa, giúp chúng ta ý thức đến tư cách là nghĩa tử và cho phép chúng ta dám gọi Thiên Chúa là “Abba, Cha ơi” (Rm 8,15). Chính Thần Khí đổ tràn tình yêu và làm nảy sinh sự hiệp thông” (s. 20).


Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Giảng lễ Hôn phối :

ANH CŨNG LÀ CỦA TÔI

 

 

I. LỜI CHÚA : Mt 11,29-30 ; Cl 3, 12-14.

 

          1. Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30).

 

          2. Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-14).

 

II. ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG CẦN THIẾT.

 

          1. Nơi con người.

          Khuynh hướng chung của con người là muốn có đời sống cộng đồng vì con người không những cần đến người khác để có cơm ăn áo mặc, , quần áo để  mặc, nhà của để ở mà còn cần đến người khác để trao đổi tâm tình, để thỏa mãn nhu cầu tình cảm vì như Thomas Merton đã nói :”Không ai là một hòn đảo” (No man  is  an  island).  Ngày xưa triết gia Aristote định nghĩa homo est animal rationale : người là một con vật có lý trí, người ta chỉ chú ý đến yếu tố tinh thần để tìm ra sự khác biệt giữa con người và con vật.

 

          Ngày nay lại cóø khuynh hướng đối nghịch lại, một số nhà xã hội học lại định nghĩa : Homo est animal sociale : người là con vật có xã hội tính.  Định nghĩa như vậy là quá chú trọng đến xã hội tính mà coi nhẹ lý tính. Nhưng dù sao cũng nói lên rằng con người cần đến người khác để chia sẻ (x. Rm 12,15), để liên hệ có trước có sau :

 

                                      Người ta có cố có ông,

                                Như cây có cội như sông có nguồn.

                                             (Ca dao)

          Nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, Giám mục Bossuet, xác nhận tư tưởng trên khi Ngài nói :”Chẳng có một người nào mà chẳng có tương quan với người khác”.

         

          2. Nơi con vật.

 

          Không những chỉ có con người mới có nhu cầu sống cộng đồng mà cả giống vật cũng có nhu cầu ấy.  Có những loài vật sống tập thể còn sống chặt chẽ hơn cả loài người, ví dụ đời sống của loài kiến, loài ong... Mọi thành phần trong cộng đồng ấy ra sức làm việc để phục vụ cho cộng đồng của mình theo sự phân công của cấp trên.  Nếu  giống vật còn cần đến  đời sống cộng đồng thì con người tại sao không ?

 

          3. Những khó khăn phát sinh.

 

          Người là con vật có lý tính và tự do, nên con người muốn hành động theo ý muốn riêng tư của mình. Mỗi người lại có những tính tình khác nhau, không ai giống ai vì bá nhân bá tính, như người ta hay nói chơi, nhưng lại có ý nghĩa :

 

                                      A di Đà Phật, mỗi người mỗi tật,

                                      Nam mô Bồ tát, mỗi người mỗi khác.

 

          Mỗi cá nhân phải sống trong tập thể thì tự do của cá nhân sẽ bị hạn chế giữa cá nhân này với cá nhân kia, giữa cá nhân với tập thể; do đó mới có sự xích mích, va chạm.

 

III. ĐỜI SỐNG VỢ CHỒNG.

 

          1. Cuộc sống phức tạp.

 

          Đây là một tập thể nhỏ, chỉ có vợ chồng với mấy đứa con, vậy mà cuộc sống chung lại trở nên rất phức tạp. Nếu không phức tạp thì tại sao người ta lại ra tòa xin ly dị nhiều như ngày nay ?  Phải công nhận rằng cuộc sống  trong gia đình nhỏ bé đó không thể nào tránh được hết những cảnh “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt” vì mỗi người có tự do, có sở thích riêng  đôi khi đối kháng nhau.  Vợ chồng phải chấp nhận thực tế phũ phàng đó và phải tìm phương thế giải quyết những mâu thuẫn ấy, bằng không chiến tranh hoặc lớn hoặc nhỏ sẽ xẩy ra trong gia đình và cuộc chiến nào mà không để lại những hoang tàn đổ nát.

 

          2. Phương thế làm cho đời sống hòa hợp.

 

          Cuộc sống vợ chồng không thể tránh được những va chạm xích mích, không thể tránh được những sự bất hoà ngấm ngầm hay bùng nổ., cách hay nhất  vợ chồng có thể giải quyết được đó là CHỊU ĐỰNG.  Chịu đựng đây không phải là sự dồn nén tiêu cực, nếu quá mức sẽ tức nước vỡ bờ, mà là một sự chịu đựng tích cực với ý nghĩa là  cố nhịn để mọi sự sẽ qua đi một cách tốt đẹp bởi vì bĩ cực thái lai, sau cơn mưa thì trời lại sáng.  Chịu đựng đây không phải là sự đầu hàng nhục nhã nhưng là một chiến thuật “lùi một bước để tiến ba bước”. Đây là học thuyết của Lão Tử :

 

                             Thắng nhân giả, hữu lực, tự thắng giả, cường.

                             Nhu thắng cang, nhược thắng cường.

                             Thắng người là có sức, thắng mình là mạnh,

                             nhu nhược lại thắng cương cường.

 

          Trong phép đấu tranh có hai cách : dùng cường cường chế cương cường, hoặc dùng nhu nhược chế cương cường.  Phép cương chế cương là một phương pháp thô sơ tạm bợ, chỉ dùng trong những trường hợp bất đắc dĩ thôi vì một khi đã dùng cường lực chế trị cường lực rồi, dù cường lực của đối phương tan rã vẫn còn lưu lại cái thù oán đến mực mùi rồi. Trong phép võ JUDO của Nhật đã có nguyên tắc “nhượng bộ để chiến thắng” (céder pour vaincre).

 

          Nhận xét ở đời, ta thấy biết bao cái mềm thì còn tồn tại mà cái cứng rắn thì mất ! Cái đòn gánh không bao giờ cứng quá mà phải mềm một chút mới dễ gánh và không bị gẫy. Cái lò xo có sức chcịu đựng được sự dồn ép mà không gẫy, khi hết sự dồn ép thì lại giãn ra như thường.

 

          Văn Vương Trung nói :”Lửa bốc lên cao, nước chảy xuống thác, thế mà bao giờ lửa cũng thua nước”. Người ta sợ lửa hơn sợ nước, thế mà chết cháy ít, chết đuối vẫn nhiều.  Nước mát, lửa nóng, thế mà lửa vẫn sợ nước vì người ta đã lấy nước trị lửa trong các đám cháy.  Vì thế đức tính hiền lành và nhẫn nhục chịu đựng được người dời ca tụng :

 

                                      Chữ nhẫn là chữ tương vàng,

                                    Ai mà nhẫn được thì càng cống lâu.

                                               

          Tại sao người ta đã ly thân hay còn tệ hơn nữa là ly dị ? Đó là vì vợ chồng không nhịn nhục chịu đựng được những nết xấu của nhau, không bao giờ nghĩ đến những ích lợi của sự chịu đựng như người ta nói :”MỘT SỰ NHỊN LÀ CHÍN SỰ LÀNH”(tục ngữ) : Có nghĩa là nhịn được một việc thì chín việc khác được yên lành. Nếu không nhịn được một việc, thì việc đó sẽ sinh ra nhiều việc lôi thôi.  Chín sự lành là nhiều sự lành chứ không nhất thiết là phải chín sự.  Đại ý câu tục ngữ này là khuyên người ta nên nhịn nhục để khỏi sinh chuyện lôi thôi khác.

 

          3. Đũa đã thành đôi.

 

          Khi người nam và người nữ chấp nhận nhau trong đời sống hôn nhân, họ đã chính thức thành vợ chồng; và từ đó, theo như lời Chúa nói “Họ không còn phải là hai nhưng là một xương một thịt” (Mc 10,8), và Chúa còn dạy thêm “Sự gì Chúa đã kết hợp loài người không được phép phân ly”(Mc 10,9) . Theo như lời Chúa dạy từ nay vợ chồng không được lôi nhau ra tòa, không được xẩy ra cảnh :

                                       Đồng tiền chiếc đũa chia ly,

                             Thiếp đi theo thiếp, chàng đi đường chàng.

                                                (Ca dao)

 

          Vì thế,  từ nay họ phải sống với nhau như đũa có đôi, thân xác của chồng là của vợ, và thân xác của vợ cũng là của chồng vì họ đã trở nên một xương một thịt để từ nay trở đi họ có thể gọi nhau là “mình ơi”.  Về vấn đề này, thánh Phaolô nói rất có lý :”Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại,  người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình (Ep 5,28b-29).

                                     

Truyện vui : Anh cũng là của tôi.

          Hai vợ chồng cãi nhau, chồng tức quá hét lên :

          - Cô cút đi, mang theo tất cả những gì là của cô !

          Vợ vừa khóc vừa thu xếp quần áo, và lấy một chiếc bao tải lớn úp vào người chồng bảo :

          - Anh chui vào đây!

          Chồng hoảng quá bảo :

          - Cô làm gì vậy ?

          Vợ thẳng giọng nói :

          - Anh cũng là của tôi, chui vào ngay !

 

          Để kết luận, chúng ta hãy suy niệm một đoạn thơ của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Êphêsô:

          “Anh em hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ.

          Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh ...  Người chồng phải yêu thương vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợï là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ, trái lại người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thề Người” (Ep 5,2a,25,28-30).

 

          Đấy là lời thánh Phaolô khuyên người chồng hãy yêu thương vợ như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh  Nhưng ngược lại, Ngài cũng khuyên người vợ phải yêu thương chồng như Hội thánh phải yêu mến Đức Kitô và trung thành với Ngài.

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

Đà lạt.

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

 

HỎA NGỤC

Ngày xưa ta nghe các cụ đi khuyên những kẻ liệt, đọc sách thiêng liêng hay nói đến hỏa ngục như là nơi đày ải khổ sở, trầm luân vô cùng: nào là quỉ đen thui, mắt ốc nhồi nhe răng nanh, đầu có sừng, đít có đuôi, trên tay lăm le cái xiên ba răng để xiên người bỏ vào những lò nung mấy ngàn độ hoặc đưa qua những vạc dầu sôi, mùi cháy khét bốc lên ngùn ngụt. Những câu chuyện đó nhằm làm cho ai nấy khiếp sợ để tăng phần nhân đức và để đừng phạm tội nữa.

Khi tôi còn là cậu giúp lễ, tôi cũng được nghe nhiều thánh tích về hỏa ngục khác nữa. Như có lần cha xứ đang mặc áo lễ để dâng lễ cho một linh hồn mới qua đời, thì linh hồn đó hiện về đen đủi đen đui, nói với cha xứ là đừng dâng lễ cho tôi nữa, tôi đã xuống hỏa ngục rồi, chẳng còn gì mà hy vọng, xin cha dâng lễ cầu nguyện cho linh hồn khác. Rồi sau đó linh hồn nhỏ một giọt mồ hôi vào lòng bàn tay cha xứ, tức thì bàn tay cha bị giọt mồ hôi xuyên qua vì nóng và rát dúa quá, xác thịt bình thường con người không thể chịu nổi. Ôi! Ghê gớm quá, giục lòng mà xưng tội đi.

Có những người bi quan cho rằng đằng nào số phận của mình cũng xuống hỏa ngục rồi, đã được xếp vào cỏ lùng, cá xấu, năm cô khờ dại... Có những người hồ nghi là chẳng biết chết xong rồi có hỏa ngục không, ai nắm chắc chuyện đó, bảo đảm có hay không, chứng minh? Cả hai lối suy nghĩ trên đều đưa đến cuộc sống ăn chơi buông thả, thoải mái tự do, ngông nghênh với đời và còn triết lý cùn thú vị như mình đã khám phá phát minh ra: "Tôi xuống hỏa ngục chả lẽ có một mình tôi, có người có ta chứ, sợ gì". Và còn biết bao tâm hồn không lên tiếng, không chối, không tin rõ rệt, có một lối sống lấp lửng, do dự, lững lờ... ra như chẳng còn sức cố gắng hơn nữa, ý chí cũng chẳng còn, hy vọng mong manh là mình sẽ không bị tụt xuống. Nhất là cha mẹ, bạn bè hay nhắc nhở nhau đi lễ đi nhà thờ đọc kinh, để khỏi xuống hỏa ngục...

Nhìn lại những cách sống như vậy để chúng ta, những người Kitô hữu, tin vào Đức Giêsu thật sự và có một tình yêu chân chính, chúng ta bình tĩnh đặt lại vấn đề giáo dục, hướng dẫn của nền "đạo lý Kitô giáo". Có thể chúng ta thiếu một nền giáo dục Kitô giáo, hoặc có một nền giáo dục Kitô giáo không khá, với những lý thuyết xa vời, những giáo điều cứng ngắc, những tưởng tượng sai lạc, những bài luân lý vô tận....

Trong Tin mừng có kể chuyện người phú hộ với yến tiệc linh đình, và ông Lazarô nghèo đói ghẻ lở tìm nhặt dưới đất những mảnh vụn ở trên bàn rơi xuống, húp những thừa cặn của tô phở mà người ăn đã bỏ đi, hút lại những mẩu thuốc lá dưới gầm bàn ăn... và cuối cùng, sau khi đã van nài đủ kiểu, ông phú hộ xin về báo cho mấy thằng anh em còn sống biết nỗi khốn khổ của con người ích kỷ. Nhưng cha Abraham nói rằng ở trần gian chúng nó đã có Môisen và các ngôn sứ, chúng nó không tin các ngài thì cho dù người chết có trở về nói cho chúng, chúng cũng chẳng tin nghe đâu (Lc 16,19-31).

Điều tôi muốn chia sẻ lại với các bạn ở đây là các ngôn sứ, nhất là Đức Kitô, đã gào thét lên cho con người về Tình Yêu Thương và Lời Chúa cho đến hôm nay. Các chứng nhân, ngôn sứ thời đại mới, vẫn kêu gào như thế mà vẫn bị khước từ, vẫn có người bịt tai, làm ngơ : "nghe như không nghe, nhìn mà không thấy..." và họ chỉ thấy có hỏa ngục thôi. Những người không tin, không yêu thì có lẽ cũng không nên nói về hỏa ngục vì rất dễ dễ bị lệch, vì chỉ để hù dọa, gây kinh hoàng, sợ hãi.....

Hoả ngục, đây là tình trạng lãng phí của một tình thương yêu âu yếm. Đức Giêsu Kitô đến đâu phải để hù dọa, nhưng là để tỏ bày tình thương yêu của Thiên Chúa, họ đã đón nhận, đã sống và đã từ chối. Phải đặt hỏa ngục trong tương quan với tình yêu, khi đó những cực hình tra tấn, vạc dầu sôi, các lò nung nướng thịt sẽ phai nhạt đi.

Sự trầm luân với những tình huống có thể xảy ra, đó chỉ là hậu quả của tính nghiêm túc của tình yêu. Một hình ảnh dễ hiểu là: Thiên Chúa như cái bóng đèn, ai ở gần thì người đó được hưởng ánh sáng, ai từ khước thì sẽ ở nơi tối tăm, mò mẫm, loạng quạng. Tình thương của cha mẹ bị con cái khước từ, tình yêu của chàng bị nàng khước từ, đau đớn lắm chứ? Nói đến hỏa ngục là để nói với những người đang yêu. Như thánh Ignatio Loyola mỗi lần ngài bị khô khan, ngài suy niệm về hỏa ngục để kích thích lòng mến. Thánh Têrêsa hài đồng nói với Chúa: nếu Chúa có cho con xuống hỏa ngục thì con xin vẫn cứ yêu Chúa, một tình yêu có tính cách nhưng-không và chuyện này chẳng có thể xảy ra được. Sự nghiền ngẫm hỏa ngục phát xuất từ lòng từ bi yêu thương âu yếm, chứ không phải bất cứ điều gì khác. Vì thế mà nó mang tính cách cầu nguyện "Lạy Chúa, xin đừng để con xa lìa, xin đừng xa cách con khỏi Thánh Nhan Ngài". Người đang yêu thì suy nghĩ về hỏa ngục trong tư cách là người đang yêu, tức là trong niềm tin tưởng, trong sự phó thác cậy trông nơi bàn tay Cha ấp ủ. Đức Kitô qua cái chết cứu độ trên thập giá của Ngài, đã giang tay ra chận đứng cánh cổng xuống đó, và hẳn ai muốn đi xuống đó chắc là phải bước qua xác Ngài.

Tấn bi kịch của hỏa ngục

là người đã nhận biết Tình yêu và đã từ chối.

***

Lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội

nào có ai đứng vững được chăng ?

(Tv 129)

Mong Manh

Mục lục

 


[1][1] Chúng ta ghi nhận là động từ này chỉ được dùng hai lần, ở đây và ở c. 6 khi nói về Thần Khí; trong các bản văn khác, thánh Phaolô không bao giờ nói rằng Thiên Chúa sai phái Thần Khí (Rm 5,5; 2 Cr 5,5; 1 Tx 4,8; x. Ep 1,17; Rm 11,8.